Giữ lấy 'lộc trời' trên đỉnh Trường Sơn

Giữ lấy 'lộc trời' trên đỉnh Trường Sơn
8 giờ trướcBài gốc
Hạt ươi mới thu nhặt được. Ảnh: Thanh Tùng
“Lộc” của núi rừng
Đứng trên đỉnh núi Công Tơ Rơn, xã biên giới La Dêê, thành phố Đà Nẵng, trong những ngày Hè, có thể nghe rõ âm thanh của rừng đang vào mùa. Không phải tiếng thú rừng vọng lại, cũng không chỉ là tiếng gió rít qua vòm cây, mà đó là tiếng rào rào của từng cánh ươi rụng xuống, chan hòa khắp mặt đất ẩm mát.
Cây ươi mọc nhiều ở cánh rừng trên dãy Trường Sơn thuộc địa phận các tỉnh thành miền Trung như Huế, Đà Nẵng và Quảng Ngãi. Tại xã biên giới La Dêê, cây ươi mọc chủ yếu trên những cánh rừng nguyên sinh thuộc các thôn Công Tơ Rơn, Đắc Chờ Đay và Đắc Pênh, với diện tích khoảng hơn 10ha. Cây ươi mọc tự nhiên, thân gỗ có đường kính gốc lên đến hơn 1m, cao 20-40m, nhưng điều làm người ta chờ đợi chính là hạt của nó. Bởi phải mất 4 năm một lần, cây mới ra hoa kết trái. Đến mùa, khi chín, hạt ươi bung cánh, theo gió rơi xuống. Người ta thường thu hoạch hạt trong khoảng thời gian từ tháng 6 đến cuối tháng 7, đầu tháng 8. Người dân miền núi thường gọi vui hạt ươi là “yến sào của núi rừng” vì vị thanh mát, sần sật như tổ yến. Những hạt nhỏ bé ấy lại chứa đựng giá trị lớn về kinh tế và y học. Với nhiều công dụng như thanh nhiệt, hỗ trợ tiêu hóa, giảm ho, ươi trở thành loại hạt có giá trị kinh tế cao. Bởi vậy, đến mùa ươi chín, người dân khắp nơi lại đổ về vùng núi trên đỉnh Trường Sơn thuộc khu vực Đà Nẵng và Quảng Ngãi để nhặt hạt ươi. Họ đi theo từng nhóm, chia nhau khu vực quanh cây ươi để có thể lượm được nhiều hơn, tiếng gọi nhau í ới vang cả một góc rừng.
“Lộc rừng” ấy do tự nhiên ban tặng, nhưng không dễ dàng có được. Muốn nhặt được ươi, người dân phải dậy từ mờ sáng, băng rừng, chờ gió đưa hạt rơi. Có khi cả ngày chỉ gom được vài cân. Nhưng cũng chính sự khan hiếm, chu kỳ 4 năm một lần ấy đã làm ươi trở thành mặt hàng giá trị cao, được thị trường săn lùng.
Ông Brao Nghêl, người dân ở thôn Công Tơ Rơn cho biết, cây ươi cho quả khoảng 4 đến 7 năm một lần. Không phải 4 năm một lần, mà suốt từ năm 2014 đến nay, ươi mới lại ra hoa, cho hạt. Quả này rất quý nên người ta săn lùng dữ lắm. Cả đời mình cũng chỉ thấy chưa gần chục lần cây ươi ra trái. Thu nhập từ việc lượm hạt ươi cao hơn nhiều so với ngày công lao động nên nhiều người dân trong vùng và cả những người từ các địa phương khác cũng vào rừng tìm hạt ươi.
“Năm nay ươi được mùa nhất trong 20 năm qua. Nhà của mình có gần chục người thì cả vợ chồng, con cái đều vào rừng nhặt ươi. Chỉ cần đi chưa được một tuần là kiếm được cả chục triệu đồng” - ông Brao Nghêl nói.
Giữ lấy “lộc rừng”
Tuy nhiên, phía sau niềm vui kinh tế ấy, vẫn còn đó nỗi trăn trở. Nhiều năm trước, không ít người vì lợi nhuận trước mắt đã khai thác ươi theo cách tận diệt: chặt cây rung cành để hạt rụng, thậm chí hạ cả cây để dễ nhặt khiến không ít cánh rừng ươi ở Trường Sơn thưa vắng, nguồn lợi tự nhiên bị đe dọa nghiêm trọng.
Chính quyền thành phố Đà Nẵng, cùng với lực lượng Biên phòng và Kiểm lâm địa phương đã phải vào cuộc mạnh mẽ. Hàng loạt biện pháp quản lý được triển khai: cấp thẻ cho người vào rừng nhặt ươi, quy định rõ thời gian, địa điểm được phép thu hái; tăng cường tuần tra, ngăn chặn hành vi phá hoại cây rừng. Các đồn Biên phòng Đắc Pring, cửa khẩu quốc tế Nam Giang thường xuyên phối hợp với lực lượng Biên phòng, Kiểm lâm, Công an xã phối hợp tuần tra 24/24 giờ trong mùa ươi, kiên quyết xử lý hành vi chặt cây rung cành, đốn hạ cây để lấy hạt. Đây là biện pháp mạnh để răn đe, bảo vệ vốn rừng còn lại. Bên cạnh đó, còn thường xuyên tuyên truyền để bà con hiểu rằng, giữ rừng là giữ lấy nguồn sống lâu dài.
Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng cửa khẩu quốc tế Nam Giang tuần tra bảo vệ rừng trong mùa thu hoạch ươi. Ảnh: Thanh Tùng
Có những mùa ươi, cán bộ, chiến sĩ quân hàm xanh phải dựng lán giữa rừng để ngăn chặn việc thương lái xúi giục bà con chặt cây. Có những buổi họp bản, bộ đội phải kiên trì giải thích, lấy ví dụ thực tiễn để bà con hiểu rằng “lộc rừng” chỉ thực sự bền khi biết gìn giữ. Ngoài ra, lực lượng Biên phòng còn là cầu nối trong việc đưa doanh nghiệp, hợp tác xã tiếp cận vùng nguyên liệu, hướng dẫn người dân cách thu hái, bảo quản, sấy khô hạt đúng kỹ thuật để nâng cao chất lượng sản phẩm. Đồng thời khuyến khích cộng đồng trồng thêm ươi xen canh, tạo quỹ cây giống để mở rộng diện tích, vừa phủ xanh đất trống, vừa chủ động nguồn nguyên liệu.
Hiện nay, trên địa bàn xã La Dêê có khoảng 20 hộ tham gia trồng ươi, trung bình mỗi hộ trồng 15-50 cây. Hầu hết hộ dân đều tự giác trồng cây, ngoài mục đích bảo vệ cây bản địa, còn mong muốn có thêm nguồn thu nhập cải thiện đời sống gia đình sau này. Để có được những cánh rừng ươi trên địa bàn, hàng chục năm qua, cộng đồng bà con các dân tộc như Cơ Tu, Ve, Tà Riềng trên địa bàn các xã biên giới của thành phố Đà Nẵng như La Êê, La Dêê, Đắc Pring... đã cùng nhau đăng ký cam kết thực hiện bảo vệ, nghiêm cấm người lạ mang những vật dụng như cưa, rìu vào trong rừng. Riêng đối với người dân địa phương, tuyệt đối không được chặt hạ và tiếp tay cho người lạ chặt cây ươi. Hiện, chính quyền đang mở rộng mô hình khoán bảo vệ rừng ươi cho các nhóm hộ, tổ bảo vệ rừng ở các xã biên giới.
Giải bài toán bền vững
Để hạt ươi không chỉ là “lộc trời” ngắn ngủi 4 năm một lần mà trở thành nền tảng sinh kế lâu dài, cần một chiến lược phát triển bền vững cho những cánh rừng Trường Sơn. Trước hết, đó là việc xây dựng quy hoạch bảo tồn và phát triển rừng ươi với sự tham gia của Nhà nước, lực lượng kiemerm lâm, BĐBP và cộng đồng dân cư. Quy hoạch này không chỉ bảo vệ diện tích hiện có, mà còn tạo điều kiện để trồng mới, phục hồi những khu rừng đã suy giảm. Mỗi cây ươi được trồng hôm nay sẽ là vốn liếng quý giá cho thế hệ mai sau.
Song hành với bảo tồn, cần thúc đẩy kinh tế tuần hoàn từ hạt ươi. Từ sản phẩm truyền thống như nước uống, bài thuốc dân gian, có thể nghiên cứu mở rộng sang các lĩnh vực thực phẩm chức năng, mỹ phẩm thiên nhiên. Các viện nghiên cứu, trường đại học cần tham gia vào quá trình phân tích, chuẩn hóa hoạt chất trong hạt ươi, mở đường cho sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu. Khi đó, hạt ươi không chỉ mang lại lợi ích kinh tế tức thời, mà còn góp phần nâng cao giá trị khoa học và vị thế quốc gia. Bên cạnh đó, một hướng đi quan trọng là gắn kết rừng ươi với du lịch sinh thái và văn hóa. Những cánh rừng ươi sẽ không chỉ là nơi nhặt lộc rừng, mà còn là điểm đến trải nghiệm cho du khách: nghe già làng kể chuyện rừng, tham gia lễ hội mùa ươi bay, thưởng thức ly trà ươi trong không gian cồng chiêng Cơ Tu. Chính sự kết hợp ấy vừa giữ được hồn rừng, vừa tạo thêm nguồn thu nhập đa dạng cho cộng đồng. Cuối cùng, cần chú trọng xây dựng thương hiệu tập thể cho ươi Trường Sơn. Khi sản phẩm có nhãn hiệu chứng nhận, được quảng bá bài bản, giá trị sẽ ổn định và bền vững.
Nguyễn Thanh Tùng
Nguồn Biên Phòng : https://bienphong.com.vn/giu-lay-loc-troi-tren-dinh-truong-son-post494299.html