Nghề dệt chiếu Kim Bồng được làm hoàn toàn bằng thủ công. Ảnh: Thủy Lê
Dấu vết của một làng nghề xưa
Từ bao đời, Kim Bồng vốn nổi tiếng với nghề mộc nức danh xứ Quảng, thế nhưng ít ai biết rằng, trên những bãi bồi ven sông Thu Bồn, cây cói mọc lên xanh tốt đã sớm nuôi dưỡng một nghề khác, đó chính là nghề dệt chiếu. Tổ tiên người dân nơi đây, với đôi bàn tay khéo léo, đã biến những thân cói mềm mại thành những tấm chiếu bền, mát, gắn bó với đời sống thường nhật của biết bao thế hệ.
Những người cao niên trong làng kể rằng, làng chiếu Kim Bồng đã có hơn 100 tuổi. Xưa kia, mỗi gia đình đều có khung cửi đặt nơi gian nhà trước. Tiếng thoi đưa lách cách hòa với tiếng nước vỗ mạn thuyền tạo nên nhịp điệu của một làng quê no đủ. Tấm chiếu cói Kim Bồng không chỉ để nằm, để trải, mà còn là vật phẩm được đem ra chợ phiên, xuôi ghe ra biển, ngược thuyền lên núi. Đó là một phần sinh kế, một phần ký ức không thể phai của làng nghề bên sông. Trải qua bao biến thiên, có lúc nghề dệt chiếu mai một, bởi sự cạnh tranh của hàng hóa công nghiệp. Song người dân Kim Bồng chưa bao giờ buông bỏ. Với họ, đó không chỉ là nghề, mà còn là cội nguồn văn hóa, là hơi thở từ đất phù sa bồi tụ, là tâm hồn của một làng quê.
Chúng tôi tìm đến xưởng dệt của bà Nguyễn Thị Thoa, một nghệ nhân gắn bó với nghề đã hơn nửa thế kỷ. Trong căn nhà ngói cũ kỹ, khung cửi dựng lên chiếm trọn khoảng sân. Bà Thoa ngồi bên, đôi tay thoăn thoắt, mắt dõi theo từng sợi cói, nhịp nhàng đưa thoi, gõ dập. Tiếng gõ lách cách vang vọng như bản nhạc quen thuộc của làng nghề.
Bà Thoa kể: “Cói phải chặt lúc vừa chín, phơi nắng độ 2-3 ngày cho dẻo, rồi tước thành sợi. Sợi trắng thì để nguyên, sợi màu phải nhuộm bằng lá bàng, vỏ cây hoặc phẩm nhuộm. Dệt chiếu cũng lắm công phu, đòi hỏi sự khéo léo và kiên nhẫn. Một tấm chiếu đôi khi mất cả tuần mới xong”. Đôi tay gân guốc của bà như in hằn dấu vết năm tháng, nhưng mỗi động tác vẫn dẻo dai, uyển chuyển.
Những thiếu nữ Kim Bồng cũng theo bà, học cách chọn cói, nhuộm sợi, ngồi vào khung cửi. Họ vừa làm, vừa cười, tiếng cười trong trẻo hòa với tiếng gõ thoi, tạo nên một điệu nhạc sống động, vừa truyền thống, vừa tươi mới. Mắt bà ánh lên niềm vui, bởi “chừng nào còn nghe tiếng thoi, còn thấy chiếu trải ra phơi nắng, thì nghề này chưa chết đâu, chú à” - bà Thoa nói vui.
Nhận thấy giá trị văn hóa to lớn của nghề dệt chiếu cói, chính quyền TP Đà Nẵng cùng phường Hội An đã có những chương trình khôi phục, hỗ trợ. Các dự án đưa giống cói tốt về trồng trên bãi bồi, mở lớp đào tạo kỹ thuật cho thanh niên, hỗ trợ vốn vay để người dân sắm khung cửi mới. Làng nghề được quy hoạch gắn với du lịch cộng đồng, đưa khách tham quan vào trải nghiệm, học cách dệt chiếu, nghe kể chuyện làng nghề.
Một cán bộ văn hóa phường Hội An chia sẻ: “Chúng tôi coi làng nghề là tài sản quý của địa phương. Việc khôi phục nghề không chỉ giữ gìn văn hóa, mà còn tạo sinh kế bền vững, gắn với phát triển du lịch sinh thái, du lịch làng nghề. Khách đến Hội An không chỉ ngắm phố cổ, mà còn được lắng nghe tiếng thoi, chạm tay vào sợi cói”. Nhờ đó, Kim Bồng dần khởi sắc. Nhiều gia đình quay lại dựng khung, nhiều bạn trẻ chọn gắn bó với nghề. Trên những bãi bồi xanh rì, cói reo trong gió, báo hiệu mùa dệt mới. Trong sân phơi, chiếu đủ sắc màu xếp chồng, rực rỡ như tấm thảm hoa bên dòng Thu Bồn.
Du khách không chỉ đến phố cổ, mà còn có hành trình trải nghiệm văn hóa qua các làng nghề ở Hội An. Ảnh: Thủy Lê
Làng nghề trong dòng chảy văn hóa du lịch
Hội An vốn nổi tiếng là điểm đến di sản thế giới, nơi mỗi mái ngói, bức tường rêu phong đều thấm đẫm dấu vết thời gian. Thế nhưng, để giữ chân du khách, chỉ những con phố cổ với đèn lồng và mái nhà ngói âm dương thôi chưa đủ. Người ta cần nhiều hơn thế, cần một sự trải nghiệm gắn với đời sống bản địa, nơi văn hóa không chỉ được nhìn ngắm, mà còn có thể được chạm vào, nếm thử, sống cùng. Và đó chính là lý do vì sao những làng nghề truyền thống quanh Hội An, trong đó có Kim Bồng, đang trở thành một phần quan trọng của bức tranh du lịch văn hóa.
Nếu như làng gốm Thanh Hà níu chân du khách bởi tiếng lò nung đỏ lửa, làng rau Trà Quế hấp dẫn bởi mùi hương rau thơm mát, thì Kim Bồng lại làm say lòng người bởi âm vang tiếng thoi đưa và sắc màu chiếu cói phơi nắng. Trong không gian mộc mạc của những mái nhà thấp thoáng sau rặng tre, hình ảnh những người thợ cần mẫn bên khung cửi, đôi tay thoăn thoắt đưa thoi, dập dềnh sợi cói đã trở thành điểm nhấn đặc biệt, khiến bất cứ ai một lần chứng kiến cũng thấy lòng mình chùng lại. Ở Kim Bồng, chiếu cói không chỉ đơn thuần là một vật dụng. Đó là kết tinh của lao động thủ công, của tri thức dân gian được truyền lại qua nhiều thế hệ.
Du khách đến đây không chỉ để mua một sản phẩm, mà còn để được tận mắt chứng kiến cả quá trình tạo nên nó: từ những luống cói phơi mình trên bãi bồi ven sông đến công đoạn chẻ, nhuộm, phơi sợi và dệt thành chiếu. Thậm chí, nhiều người còn hào hứng thử ngồi vào khung cửi, tự tay dệt lấy vài hàng chiếu, rồi ngắm nhìn “tác phẩm” vụng về của mình với một niềm hứng khởi trẻ thơ. Cảm giác được chạm vào sợi cói, được lắng nghe tiếng thoi gõ lách cách, được thấy đôi bàn tay chai sần của người thợ khéo léo biến sợi dọc, sợi ngang thành hoa văn tinh xảo, tất cả đã tạo nên một trải nghiệm “du lịch sống” mà khó điểm đến nào có được.
Với du khách quốc tế, trải nghiệm này lại càng hấp dẫn. Họ tìm thấy trong chiếu cói Kim Bồng một biểu tượng thuần Việt, mộc mạc mà sâu sắc. Một tấm chiếu nhỏ mang về không chỉ là món quà lưu niệm, mà còn là mảnh ký ức sống động về một vùng đất. Nó khác xa với những món đồ công nghiệp vô hồn, bởi mỗi tấm chiếu đều ẩn chứa câu chuyện của người thợ, của dòng sông Thu Bồn hiền hòa, của nắng gió miền Trung.
Chị Yucahara, một du khách người Nhật Bản chia sẻ sau chuyến tham quan: “Tôi thấy thật tuyệt khi nghề thủ công ở đây không chỉ được giữ gìn, mà còn gắn liền với du lịch. Khi ngồi vào khung cửi, tôi cảm nhận được sự kiên nhẫn và tinh tế của người thợ. Tấm chiếu này mang theo hơi thở của dòng sông, của đất đai, của lịch sử”.
Điều đáng trân quý là trong dòng chảy du lịch hiện đại, chiếu cói Kim Bồng không dừng lại ở sự tái hiện truyền thống, mà còn có sự thích ứng, sáng tạo. Người thợ đã biết cách làm mới sản phẩm bằng những hoa văn tinh xảo hơn, màu sắc phối hài hòa và hiện đại hơn, thậm chí còn biến tấu thành những món đồ gia dụng, trang trí độc đáo như túi xách, tấm lót bàn, tranh treo tường. Những đổi thay ấy không làm mất đi linh hồn của nghề mà ngược lại, thổi vào đó sức sống mới khiến chiếu cói trở thành sản phẩm vừa truyền thống, vừa thời thượng, phù hợp với nhu cầu thẩm mỹ đa dạng của khách hàng.
Đằng sau sự “hóa thân” của chiếu cói là một chiến lược bài bản của chính quyền địa phương nhằm khuyến khích, phát triển làng nghề gắn kết với du lịch cộng đồng, hỗ trợ quảng bá sản phẩm, kết nối với các tour tham quan Hội An-Cù Lao Chàm-làng gốm sứ Thanh Hà-làng rau Trà Quế-làng chiếu cói Kim Bồng. Nhờ vậy, du khách không chỉ đến phố cổ, mà còn có hành trình trải nghiệm văn hóa vùng ven, nơi mỗi làng nghề là một mảnh ghép bổ sung cho bức tranh du lịch Hội An thêm phần sinh động. Và khi những mảnh ghép ấy được ghép lại, Hội An không còn chỉ là “thành phố di sản”, mà còn là “thành phố của trải nghiệm”, nơi du khách được sống trong một không gian văn hóa tổng thể.
Thủy Lê