Sáng sớm, mặt nước sông Phó Đáy còn phủ sương mù. Những chiếc lồng cá nối nhau thành dãy, im lặng soi bóng những rặng tre. Trên những chiếc lồng, chị Ngụy Hồng Cúc ở xã Thái Hòa, tỉnh Phú Thọ kiên nhẫn đong từng gàu thức ăn, rắc xuống mặt nước. Cá trắm, cá chép giòn lao lên tạo những vòng sóng nhỏ, vỡ tan trong ánh nắng đầu ngày. Người phụ nữ Ngụy Hồng Cúc ấy đã gắn bó với dòng sông Phó Đáy này ngót chục năm, biến nó thành cần câu cơm cho cả gia đình.
“Lúc mới làm, tôi chỉ dám dựng mấy lồng thôi, vừa học vừa làm. Nuôi cá nước chảy khó hơn nuôi ao nhiều, nhưng được cái con cá khỏe, ít bệnh, thịt ngon. Quan trọng nhất là phải chịu khó, mình không bỏ là sông không phụ”, chị Cúc vừa chia sẻ, vừa kéo tay áo lau mồ hôi.
Chị Ngụy Hồng Cúc ở xã Thái Hòa, tỉnh Phú Thọ và khách tham quan mô hình nuôi cá lồng trên sông của mình.
Một con đường không bằng phẳng
Năm 2016, sau khi mô hình nuôi cá lồng được khuyến khích ở xã, vài hộ tiên phong bắt tay vào thử nghiệm. Trong số đó có chị Cúc. Vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội, hai vợ chồng dựng lên ba lồng đầu tiên, chọn cá trắm cỏ và cá chép giòn – giống chịu được nước chảy, thịt đẹp, dễ bán.
Nhưng nghề sông không chỉ đòi hỏi vốn liếng mà còn là sự bền bỉ. Lũ về, mưa lớn, nước đục cuốn theo rác, thậm chí cả gỗ trôi, có khi đánh sập cả lồng. Chị Cúc nhớ như in mùa mưa năm thứ hai: “Chỉ trong một đêm, cá chết gần nửa. Vợ chồng nhìn nhau mà không biết nói gì. Nhưng mình đã bắt tay vào làm rồi, bỏ thì lấy gì nuôi con”. Không bỏ cuộc, chị học lại từ những hộ đã thành công, từ cán bộ khuyến nông.
Chị ghi chép tỉ mỉ về liều lượng thức ăn, giờ cho cá ăn, thời điểm vệ sinh lồng, thậm chí còn tự phơi tỏi, ép bột để trộn vào thức ăn phòng bệnh. “Cá dưới sông không chịu khói ô tô, không có tiếng máy, nó nghe được mình chăm nó thế nào. Cứ đều tay, đúng giờ là nó ăn khỏe”, chị cười.
Theo chị Cúc, nghề nuôi cá lồng trên sông không chỉ đòi hỏi vốn liếng mà còn là sự bền bỉ và kiên trì.
Từ ba lồng đến gần hai chục lồng cá
Sau ba năm, khi kỹ thuật dần ổn định, chị Cúc mở rộng quy mô. Từ 3 lồng, nay chị có gần 20 lồng cá, phân theo từng nhóm tuổi và kích cỡ. Mỗi năm gia đình thu 2–3 vụ, sản lượng hàng chục tấn cá. Mỗi vụ, trắm đen đạt 3–4kg/con, cá lăng từ 1,5–2kg. Mỗi lứa cá đến kỳ xuất bán đều đem lại thu nhập ổn định từ vài trăm triệu đến cả tỷ đồng. Cũng nhờ nghề này, gia đình chị có nhà mới trên bờ, con cái được học hành chu đáo.
Công việc không chỉ là mở hạt thức ăn ra rắc. Cá lồng là lao động chân tay bền bỉ, ngày hai lượt, sáng–chiều, kể cả mùa đông rét cắt. Trước mỗi đợt mưa lớn, chị thu gọn lồng, kiểm tra dây neo, buộc chặt từng thanh gỗ. “Con nước mà muốn nổi giận, mình phải biết nhường. Bảo vệ lồng là bảo vệ mồ hôi, chứ không phải con cá”, chị nói.
Theo chị Cúc, nuôi cá lồng trên sông không những phải biết cách chăm sóc những đàn cá mà còn phải biết nhìn những dòng nước thay đổi theo thời gian.
Giữ lửa giữa dòng
Không chỉ làm cho gia đình, nhiều hộ dân khác bắt đầu tìm đến học hỏi. Những thanh niên trong xã, thấy được kết quả từ mô hình, đăng ký vay vốn, dựng lồng ở đoạn sông ít xoáy. Chị Cúc sẵn sàng hướng dẫn từ cách chọn giống khỏe, thay nước, đến cách quan sát mặt nước khi cá ăn. “Tôi chỉ nói với họ một câu là nuôi cá thì không được nóng vội. Thấy lồng người khác bán được mà mình sốt ruột là hỏng”.
Một trong những công việc vất vả hàng ngày của chị Cúc là cắt cỏ tươi để làm nguồn thức ăn cho cá.
Giữa buổi trò chuyện, mặt nước bỗng xao động. Những đàn cá nổi lên quẫy mạnh. Chị Cúc nhìn theo, ánh mắt yên bình. “Tôi sống với con sông từ nhỏ. Nuôi cá lồng cũng như gửi một phần cuộc đời cho nó. Có hôm mệt, tưởng bỏ, nhưng sáng ra thấy cá ăn khỏe lại thấy vui. Giống như sông đang bảo mình, cố lên”.
Nắng phủ lên những chiếc lồng màu đồng nhạt. Sông Phó Đáy vẫn lặng lẽ chảy, mang theo câu chuyện của người phụ nữ Thái Hòa – người đã biến dòng sông quen thuộc thành trang trại giữa thiên nhiên, và biến sức lao động của mình thành nguồn sống bền bỉ cho gia đình.
Trung Đông