Gỡ bỏ nỗi sợ 'không dám lớn' cho doanh nghiệp nhỏ

Gỡ bỏ nỗi sợ 'không dám lớn' cho doanh nghiệp nhỏ
7 giờ trướcBài gốc
Tín hiệu “hụt hơi” của kinh tế tư nhân
"Doanh nghiệp không muốn lớn" là cụm từ được dùng để nhắc tới các doanh nghiệp tư nhân, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), không muốn mở rộng quy mô kinh doanh, phát triển lớn mạnh hơn.
Hộ kinh doanh cá thế có lợi thế nhờ thủ tục hành chính đơn giản, không bị ràng buộc bởi nhiều quy định pháp lý, nhưng khó trở thành doanh nghiệp. Ảnh: Lê Vũ
Thực tế, dù dẫn đầu toàn nền kinh tế về tốc độ tăng trưởng số lượng doanh nghiệp, quy mô vốn đầu tư và lực lượng lao động giai đoạn 2011-2023, với mức tăng 14,7%, 25,3% và 8% mỗi năm, nhưng tâm lý không mốn lớn, thậm chí ‘mini hóa’ vẫn tồn tại trong cộng đồng doanh nghiệp tư nhân. Điều này thể hiện ở khoảng cách ngày càng lớn về quy mô vốn, lao động và doanh thu bình quân giữa doanh nghiệp thuộc khu vực tư nhân với khu vực Nhà nước và FDI, theo GS.TS Ngô Thắng Lợi, giảng viên cao cấp Đại học Kinh tế quốc dân.
“Tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân ‘không có lần sinh nhật thứ hai’ lên tới 50% và là một trong những nguyên nhân khiến Việt Nam không hoàn thành được một số chỉ tiêu như có ít nhất 1 triệu doanh nghiệp vào năm 2020, hay 12 doanh nghiệp/1.000 dân”, ông Lợi nói tại tọa đàm về “Các giải pháp đột phá, tháo gỡ các điểm nghẽn, phát triển khu vực kinh tế tư nhân”.
Còn một nghiên cứu của Fiingroup cho thấy DNVVN chiếm 95% tổng số doanh nghiệp cả nước, nhưng đóng góp vào nền kinh tế còn rất hạn chế, với doanh thu dưới 20% và tổng kim ngạch xuất nhập khẩu dưới 10%. Theo đó, 33.000 doanh nghiệp tham gia xuất khẩu và 73.000 doanh nghiệp tham gia nhập khẩu chỉ đóng góp 6,7% tổng kim ngạch xuất khẩu và 9% tổng kim ngạch nhập khẩu.
Hơn nữa, rủi ro nhóm doanh nghiệp này tạo ra với nền kinh tế có xu hướng gia tăng đáng kể trong giai đoạn 2022-2024, với đỉnh điểm là gần 60% doanh nghiệp có rủi ro vỡ nợ từ cao đến rất cao trong năm 2024.
Lý giải nguyên nhân, ông Phạm Tấn Công, Chủ tịch Liên đoàn thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI), cho biết nhiều doanh nghiệp hiện nay rơi vào trạng thái “không muốn lớn” do e ngại mở rộng quy mô sẽ gia tăng rủi ro, phát sinh nhiều chi phí, cũng như áp lực về thủ tục hành chính phức tạp. Chẳng hạn, tại một dự án đầu tư có sử dụng đất điển hình đang thực hiện, thủ tục hành chính cần hoàn tất liên quan đến ít nhất 12 bộ luật, hơn 20 Nghị định, Thông tư.
“Các Thông tư này thường thay đổi liên tục. Do đó, thời gian để hoàn thành thủ tục nhanh cũng phải 18-24 tháng, bình thường là xấp xỉ 3 năm”, ông Công nói.
Bổ sung, ông Ngô Thắng Lợi cho rằng các doanh nghiệp tư nhân quy mô lớn còn quá ít, chỉ chiếm 2,5%, làm hạn chế khả năng tận dụng lợi thế nhờ quy mô và vai trò dẫn dắt của “sếu đầu đàn”. Hơn nữa, tỷ lệ doanh nghiệp quy mô vừa chỉ chiếm 3,5% là thấp, nên không thể giữ vai trò trung gian giữa doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ với doanh nghiệp lớn và ít có khả năng chuyển tiếp lên quy mô lớn.
“Các đơn vị kinh tế tư nhân còn lại không chỉ có quy mô nhỏ siêu nhỏ, với thành phần chủ yếu là kinh tế cá thể - vốn sở hữu nền tảng công nghệ yếu, quy mô sản xuất và kinh doanh nhỏ lẻ, nên rất khó liên kết, nhận sự hỗ trợ của các doanh nghiệp lớn, hoặc tham gia vào mạng lưới sản xuất và các chuỗi giá trị”, ông Lợi giải thích.
Bên cạnh đó, việc ngân hàng và tổ chức tài chính có xu hướng chọn khách hàng có thời gian hoạt động đủ lâu, với gần 85% DNNVV được cấp vốn vay có lịch sử hoạt động từ 5 năm trở lên, cũng là yếu tố khiến nhóm doanh nghiệp ‘không có lần sinh nhật thứ hai’ khó tiếp cận vốn tín dụng - yếu tố giúp kéo dài thời gian hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Cơ hội lớn, mạnh từ đâu?
Thực tế, để giảm thiểu tình trạng doanh nghiệp không muốn lớn, Bộ Chính trị đã đưa ra nhiều chính sách ưu đãi cụ thể tại Nghị quyết 68 về phá triển kinh tế tư nhân, gồm: miễn thuế thu nhập doanh nghiệp trong 3 năm đầu; bỏ thuế môn bài; xây dựng cơ chế pháp lý rõ ràng, minh bạch; giảm thiểu rủi ro hình sự hóa trong hoạt động kinh doanh.
Điều này đã phần nào tạo động lực phát triển cho cộng đồng doanh nghiệp. Minh chứng gần đây là hai doanh nghiệp trong nước đã mạnh dạn đề xuất đầu tư dự án đường sắt tốc độ cao, một lĩnh vực tồn tại nhiều rủi ro.
Hoạt động sản xuất tại một doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ảnh: Gia Nghi
Nhưng để doanh nghiệp thực sự “dám nghĩ, dám làm”, ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng thư ký VCCI, nhấn mạnh các tiêu chí về phát triển doanh nghiệp tư nhân cần được xem là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của chính quyền các cấp, như :tăng trưởng doanh nghiệp mới, thu hút đầu tư, tỷ lệ hài lòng của doanh nghiệp tư nhân.
“Có như vậy mới tạo được động lực thực thi chính sách mạnh mẽ ở địa phương", ông Tuấn nói.
Bổ sung, ông Phan Đức Hiếu, Ủy viên thường trực Ủy ban kinh tế của Quốc hội, cho rằng cần cơ chế kết nối sát hơn giữa doanh nghiệp và Ban Chỉ đạo, như đường dây nóng hoặc nhóm thường trực, thậm chí nâng cấp Cổng Pháp luật Việt Nam để doanh nghiệp phản ánh trực tiếp khi xảy tình tình huống mỗi năm bị thanh tra nhiều hơn một lần, trái với tinh thần Nghị quyết 68.
"Niềm tin của doanh nghiệp được củng cố khi vướng mắc được giải quyết nhanh. Ngược lại, nếu để tồn đọng thì niềm tin sẽ bị bào mòn," ông Hiếu nói.
Bên cạnh sự trợ lực từ chính sách, ông Đậu Anh Tuấn cho rằng chính quyền các cấp cần bắt đầu hỗ trợ các doanh nghiệp siêu nhỏ và hộ kinh doanh - nhóm rất nhạy cảm với thay đổi chính sách qua các giải pháp, như: tăng cường truyền thông, tập huấn - hỏi đáp chính sách theo hướng "cầm tay chỉ việc". Đồng thời, đơn giản hóa thủ tục về sổ sách kế toán, quyết toán thuế và hỗ trợ chi phí chi phí mua máy tính tiền kết nối với hệ thống của cơ quan thuế.
Hơn nữa, cần có lộ trình chuyển tiếp, kèm kèm theo cam kết rõ ràng về việc không hồi tố sai phạm và không truy thu thuế trong thời gian này để thúc đẩy doanh nghiệp, hộ kinh doanh “chuyên nghiệp hóa” hoạt động.
Ngoài ra các giải pháp trên, việc xếp hạng tín dụng doanh nghiệp nên chuyển sang dựa trên dữ liệu và công nghệ, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro và giúp doanh nghiệp nhanh chóng tiếp cận vốn vay.
Hiện Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia (CIC) đang mở rộng hợp tác với các đơn vị cung cấp dữ ngoài ngành như: tổ chức khác có hoạt động ngân hàng, tổ chức bán lẻ, các đơn vị mua trước trả sau (BNPL), thông tin đăng ký kinh doanh DN, Bộ Tài chính, cơ quan thuế, các tổ chức Fintech (P2P Lending, ví điện tử), doanh nghiệp viễn thông, bảo hiểm xã hội nhằm thu thập thông tin từ các nguồn này.
Đây sẽ là nguồn thông tin quan trọng để đánh giá khách hàng chưa có lịch sử vay vốn, đặc biệt là nhóm cá nhân thu nhập thấp, hộ kinh doanh cá thể hoặc doanh nghiệp nhỏ.
Vân Phong
Nguồn Saigon Times : https://thesaigontimes.vn/go-bo-noi-so-khong-dam-lon-cho-doanh-nghiep-nho/