Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính, nghị định này để tạo hành lang pháp lý rõ ràng, thúc đẩy hợp tác giữa nhà nước, doanh nghiệp và các trung tâm nghiên cứu.
Mở đường cho hợp tác công tư trong phát triển khoa học công nghệ
Phát biểu tại Hội nghị lấy ý kiến về Nghị định quy định cơ chế, chính sách hợp tác công tư trong khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số ngày 21/6, Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng cho rằng, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định các chủ trương, giải pháp quan trọng nhằm tạo đột phá để phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, trong đó đẩy mạnh hợp tác công tư trong lĩnh vực này là một trong các giải pháp quan trọng.
Thực hiện Nghị quyết 57, Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì xây dựng Nghị định nhằm tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, mở rộng không gian hợp tác công – tư, huy động hiệu quả nguồn lực cho phát triển các lĩnh vực chiến lược này.
Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng, mặc dù đã có Luật Đầu tư theo hình thức đối tác công tư (PPP), nhưng trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số cần có những giải pháp đổi mới, phù hợp thực tiễn.
“Ban Chỉ đạo Trung ương và đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ đạo khẩn trương xây dựng Nghị định này để tạo hành lang pháp lý rõ ràng, thúc đẩy hợp tác giữa nhà nước, doanh nghiệp và các trung tâm nghiên cứu. Đây là bước đi quan trọng để tháo gỡ những hạn chế còn tồn tại trong quan hệ giữa nhà nước và doanh nghiệp trong lĩnh vực này”- ông Thắng cho biết thêm.
Đầu tư theo phương thức đối tác công tư đã được quy định trong Luật PPP và đã được thực hiện nhiều năm qua ở Việt Nam, nhưng kết quả áp dụng hình thức này trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số còn rất hạn chế do thiếu cơ chế pháp lý cho các mô hình hợp tác linh hoạt giữa Nhà nước – doanh nghiệp – tổ chức khoa học công nghệ là các trường đại học, viện nghiên cứu, đơn vị sự nghiệp công lập; Thiếu các cơ chế ưu đãi, chia sẻ rủi ro phù hợp, đủ mạnh, chưa tạo được niềm tin cho các nhà đầu tư: Quy trình, thủ tục đầu tư, hợp tác liên doanh liên kết còn phức tạp, chưa phù hợp với các nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển công nghệ chiến lược.
Giải quyết nhiều "điểm nghẽn"
Ông Phạm Thi Hùng - Phó Cục trưởng Cục Quản lý đấu thầu, Bộ Tài chính cho biết, dự thảo được xây dựng với kết cấu gồm 6 chương, 3 phần và 3 điều khoản.
Nghị định được xây dựng theo định hướng lớn sau:
Mở rộng, bổ sung thêm các hình thức hợp tác công tư khác ngoài các hình thức đã được quy định trong Luật PPP, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công. Với mỗi hình thức hợp tác, Nghị định cũng định hướng các nhóm sản phẩm, dịch vụ và các chủ thể thực hiện phù hợp tạo điều kiện thuận lợi khi áp dụng.
Quy định cụ thể cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ, bảo đảm đầu tư vượt trội. Đồng thời, phân cấp mạnh mẽ, đơn giản tối đa quy trình, rút ngắn thủ tục, tinh gọn nội dung cho phù hợp với đặc thù của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, tạo điều kiện triển khai nhanh, linh hoạt, hiệu quả.
Quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước, tổ chức chủ trì và các nhà đầu tư: bảo đảm tính minh bạch, hiệu quả và kiểm soát rủi ro trong tổ chức thực hiện.
Về quy trình thực hiện, nghị định cắt giảm bước phê duyệt chủ trương đầu tư đối với các dự án PPP trong lĩnh vực khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, ngoại trừ các dự án thuộc thẩm quyền Quốc hội. Các bước thẩm định cũng được rút ngắn, ví dụ thời gian thẩm định từ 14 ngày giảm còn 7 ngày.
Nghị định cũng giải quyết vướng mắc trong triển khai dự án chuyển đổi số theo hình thức PPP, khi các đơn vị gặp khó khăn do thiếu hướng dẫn cụ thể về quy trình, thủ tục. Theo đó, quy trình đầu tư sẽ thực hiện theo Luật PPP, còn các chi tiết kỹ thuật, an ninh, an toàn sẽ tuân thủ các quy định chuyên ngành.
Đối với dự án do nhà đầu tư đề xuất hoặc được chỉ định, quy trình được đơn giản hóa gồm: nhà đầu tư gửi hồ sơ đề xuất, cơ quan có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt và xây dựng kết quả chỉ định thầu cùng dự thảo hợp đồng, sau đó ký kết và thực hiện hợp đồng.
Ngoài ra, mở rộng hình thức lựa chọn nhà đầu tư hiện có gồm: đấu thầu rộng rãi, chỉ định thầu, đàm phán cạnh tranh và lựa chọn trong trường hợp đặc biệt. Đặc biệt, mở rộng trường hợp áp dụng chỉ định nhà đầu tư cho các dự án đảm bảo yêu cầu an ninh quốc phòng.
Về quy trình, nghị định đơn giản hóa tối đa, phù hợp đặc thù dự án khoa học công nghệ. Các cơ chế hỗ trợ, ưu đãi cũng được bổ sung. Theo Luật PPP, tỉ lệ vốn nhà nước tham gia dự án được nâng lên tối đa 70%. Ngoài ra, có hỗ trợ kinh phí cho các quỹ phát triển khoa học công nghệ.
Một cơ chế quan trọng là chia sẻ phần giảm doanh thu: trong 3 năm đầu vận hành, nếu doanh thu thực tế của nhà đầu tư thấp hơn phương án tài chính đã đăng ký, Nhà nước sẽ bù 100% phần chênh lệch. Thêm nữa, nhà đầu tư có quyền chấm dứt hợp đồng nếu doanh thu thực tế thấp hơn 50% so với phương án tài chính; khi đó, nhà nước sẽ chi trả toàn bộ chi phí đầu tư xây dựng hạ tầng và chi phí vận hành mà nhà đầu tư đã bỏ ra. Đây là những ưu đãi vượt trội dành cho dự án đầu tư theo hình thức PPP.
Nghị định bổ sung quy định cho phép người đứng đầu đơn vị sự nghiệp tự xác định giá trị tài sản, đồng thời rút gọn quy trình lấy ý kiến phê duyệt đề án, giảm thời gian từ 30 ngày xuống còn 15 ngày, tiết kiệm khoảng 80% thời gian.
Còn theo Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài chính - Bộ Khoa học và Công nghệ Nguyễn Nam Hải, với vai trò cơ quan quản lý nhà nước, chúng ta cũng cần sáng tạo. Ví dụ, hiện nay có một số công điện và cách tiếp cận mới trong việc thực hiện nguồn vốn hỗ trợ. Nếu theo cách tiếp cận này, các tổ chức chủ thể sẽ phối hợp nhà nước và tư nhân cùng đầu tư để hình thành các doanh nghiệp thực hiện nghiên cứu, phát triển công nghệ và sáng tạo.
Ví dụ, hiện tại trong thực tiễn luật, Bộ đề xuất bổ sung quỹ đầu tư mạo hiểm trong Luật Khoa học và Công nghệ, sử dụng nguồn vốn từ trung tâm đầu tư mạo hiểm theo nguyên tắc hỗ trợ các startup có tiềm năng nhưng đi kèm rủi ro cao. Nhà nước và tư nhân cùng góp vốn, trong đó nhà nước không nắm cổ phần chi phối để đảm bảo mô hình hoạt động độc lập.
Về hình thức khác trong đầu tư hạ tầng, quan điểm của Bộ Khoa học và Công nghệ là tránh việc cùng đầu tư vào một hạ tầng mà cuối cùng lại khó khai thác và nghiên cứu hiệu quả, dù bộ chủ quản có thể cử đơn vị quản lý, phối hợp với tư nhân, mô hình này vẫn rất rộng và phức tạp.
Đại diện Bộ Khoa học và Công nghệ cũng cho rằng, việc đưa tài sản của các tổ chức công lập vào hoạt động kinh doanh cần được cân nhắc kỹ lưỡng để tránh rủi ro. Bởi trong lĩnh vực công nghệ, vài năm trước có vụ việc liên quan đến Việt Á. Thực tế lúc đó, nhà nước đầu tư ngân sách khoảng 20 tỉ đồng, nhưng doanh thu thu được từ hoạt động đó lên đến 4.000 tỉ đồng. Sau khi trừ đi khoảng 60 tỉ đồng chi phí, nếu không có sai phạm thì khoản tiền thu về vẫn rất lớn. Vấn đề sai phạm xảy ra trong quá trình thực hiện, nhưng về mặt kinh tế, hoạt động đó vẫn có lãi khoảng 3.300 tỉ đồng. Từ câu chuyện này, việc định giá công nghệ, ví dụ test kit là rất khó khăn. Nhà nước bỏ ra 20 tỉ đồng nhưng định giá công nghệ lên đến hàng trăm tỉ đồng thì sẽ gây ra nhiều tranh luận. Nếu sau này doanh nghiệp kinh doanh thu về 2.000 tỉ đồng thì việc định giá lại càng phức tạp và có thể chênh lệch lớn.
Kết luận Hội nghị, Bộ trưởng Bộ Tài chính nhấn mạnh: Xác định nội dung của nghị định “rất khó”, bởi đây là lần đầu tiên có hợp tác công tư trong lĩnh vực khoa học công nghệ, do đó chúng ta phải quyết tâm từ khâu thể chế, văn bản quy phạm pháp luật phải đầy đủ nhất.
Cái khó nhất trong nội dung này theo ông chính là câu chuyện phân loại và định giá tài sản. Tuy nhiên, nếu công khai minh bạch và thực hiện định giá có phương pháp thì sẽ giải quyết được các khó khăn này.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng cũng yêu cầu cơ quan soạn thảo phối hợp chặt chẽ với các bên, tiếp thu tối đa ý kiến các địa biểu hôm nay để hoàn thiện nghị định theo hướng bám sát mục tiêu chỉ đạo tại Nghị quyết 57 và Nghị quyết 93 của Quốc hội, các kế hoạch hành động và Nghị quyết của Chính phủ để triển khai thực thiện.
Rà soát hoàn thiện quy định đơn giản hóa tối đa thủ tục, áp dụng chính sách ưu đãi vượt trội trong hợp tác công tư. Rà soát vừa bao quát vừa có trọng tâm trọng điểm, khu trú vào một số loại hình, sản phẩm chứ không nên dàn trải quá…
Nguyễn Anh