Thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án nhà ở thương mại thường mất nhiều thời gian trước khi được cấp phép xây dựng
Doanh nghiệp lỡ nhịp vì thủ tục kéo dài
Trao đổi với Báo Đầu tư Chứng khoán, lãnh đạo một doanh nghiệp bất động sản đang triển khai dự án khu đô thị tại khu Đông TP.HCM cho biết, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đang là một trong những điểm nghẽn lớn nhất đối với doanh nghiệp tư nhân. Quy trình này có thể kéo dài thời gian chuẩn bị đầu tư dự án thêm 2 - 5 năm, đồng thời gia tăng chi phí, khiến không ít doanh nghiệp lỡ nhịp cơ hội kinh doanh do phải chờ đợi phê duyệt kéo dài.
Theo vị này, thủ tục hiện hành chỉ dừng ở việc chấp thuận về mục tiêu, địa điểm, quy mô dự án trước khi chính thức triển khai, trong khi các nội dung đó vẫn được thẩm định lại trong quá trình thực hiện theo luật chuyên ngành. Điều này dẫn đến tình trạng trùng lặp, không giúp tăng hiệu quả quản lý nhà nước nhưng lại tạo thêm gánh nặng hành chính cho doanh nghiệp.
Ngoài ra, công tác thẩm định còn phụ thuộc lớn vào sự phối hợp của nhiều sở, ngành. Chỉ cần một đơn vị chậm phản hồi hoặc có ý kiến chưa thống nhất, hồ sơ có thể rơi vào tình trạng “treo” vô thời hạn. Thậm chí, một số sở, ngành đưa ra ý kiến khác nhau khiến cơ quan chủ trì không thể tổng hợp để trình cấp có thẩm quyền.
“Không ít dự án bị đình trệ chỉ vì vướng mắc nội bộ giữa các cơ quan quản lý. Trong khi đó, doanh nghiệp vẫn phải gồng gánh chi phí mặt bằng, nhân sự, tài chính mà không biết khi nào dự án được thông qua”, vị này chia sẻ.
Ở góc độ chuyên môn, ông Lê Hoàng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP.HCM (HoREA) cho rằng, thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư đối với dự án nhà ở thương mại thường mất nhiều thời gian trước khi được cấp phép xây dựng.
Tại TP.HCM - đầu tàu kinh tế cả nước - số lượng dự án được chấp thuận thủ tục đầu tư trong nhiều năm qua vẫn rất khiêm tốn. Cụ thể, năm 2020, Sở Xây dựng chuyển 61 hồ sơ dự án sang Sở Kế hoạch và Đầu tư, giảm 46% so với năm 2019, nhưng không có dự án nào được trình UBND thành phố phê duyệt chủ trương đầu tư.
Quá trình thẩm định chủ trương đầu tư còn phức tạp, kéo dài do thiếu quy định thống nhất về trình tự, thủ tục đánh giá nhu cầu sử dụng đất và khả năng đáp ứng điều kiện giao đất, cho thuê đất.
Cũng trong năm 2020, Sở Xây dựng (theo thẩm quyền tại Luật Nhà ở 2014) đã chấp thuận chủ trương đầu tư, công nhận chủ đầu tư cho 47 dự án nhà ở thương mại. Tuy nhiên, từ ngày 1/1/2021, khi Luật Đầu tư 2020 có hiệu lực, thẩm quyền này chuyển sang Sở Kế hoạch và Đầu tư. Tuy vậy, số lượng dự án được chấp thuận cũng không nhiều: năm 2021 có 7 dự án, năm 2022 chỉ có 2 dự án, năm 2023 có 3 dự án. Đến năm 2024, số dự án tăng lên 17, trong đó 9 dự án được giải quyết nhờ phân cấp cho UBND TP. Thủ Đức (cũ).
“Chấp thuận chủ trương đầu tư là bước đầu tiên và quan trọng nhất trong tiến trình hoàn thiện pháp lý dự án. Nếu không vượt qua bước này, dự án không thể thực hiện các bước tiếp theo, đồng nghĩa với việc bị dừng lại toàn bộ, cho dù chi phí đã đổ vào dự án rất lớn”, ông Châu nhấn mạnh.
Tại dự thảo Luật Đầu tư (thay thế), cơ quan soạn thảo nhìn nhận, quá trình thẩm định chủ trương đầu tư còn phức tạp, kéo dài do thiếu quy định thống nhất về trình tự, thủ tục đánh giá nhu cầu sử dụng đất và khả năng đáp ứng điều kiện giao đất, cho thuê đất, đặc biệt trong các trường hợp không thông qua đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.
Việc Luật Đất đai 2024 và các nghị định hướng dẫn chưa có quy định cụ thể khiến cơ quan quản lý đất đai không thể thẩm định nội dung này khi được lấy ý kiến, dẫn tới cơ quan đăng ký đầu tư không có đủ cơ sở để lập báo cáo thẩm định theo quy định tại Luật Đầu tư 2020.
Giảm tiền kiểm, tăng hậu kiểm
Thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư chỉ dừng ở việc chấp thuận về mục tiêu, địa điểm, quy mô dự án trước khi chính thức triển khai, trong khi các nội dung đó vẫn được thẩm định lại trong quá trình thực hiện theo luật chuyên ngành.
Dự thảo Luật Đầu tư (thay thế) đề xuất thu hẹp phạm vi các dự án phải thực hiện thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư, chỉ áp dụng với các dự án hạ tầng thuộc lĩnh vực quan trọng, nhạy cảm.
Đồng thời, dự thảo quy định rõ các trường hợp được miễn thực hiện thủ tục này, gồm: nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư thuộc trường hợp giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư thực hiện dự án có sử dụng đất (trừ các dự án thuộc thẩm quyền của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các dự án có quy mô lớn...); nhà đầu tư được giao đầu tư xây dựng hạ tầng kỹ thuật cụm công nghiệp theo quy định pháp luật về quản lý, phát triển cụm công nghiệp.
Một điểm mới đáng chú ý, dự thảo cũng đơn giản hóa quy trình thẩm định bằng cách loại bỏ yêu cầu xem xét chi tiết về công nghệ, môi trường… tại giai đoạn chấp thuận chủ trương đầu tư, thay vào đó chuyển sang cơ chế “hậu kiểm”, giảm dần “tiền kiểm”.
Theo cơ quan soạn thảo, quyết định chủ trương đầu tư là căn cứ pháp lý quan trọng để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, đồng thời tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật, tránh tình trạng mỗi luật chuyên ngành quy định thủ tục riêng, gây phân mảnh, thiếu minh bạch.
Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đánh giá tích cực các thay đổi trong dự thảo theo hướng cải cách thủ tục. Tuy nhiên, VCCI cũng đề nghị cân nhắc sửa một số nội dung để tránh phát sinh thủ tục không cần thiết.
Chẳng hạn, dự thảo quy định, nhà đầu tư có dự án đầu tư đã được chấp thuận đầu tư phải thực hiện thủ tục điều chỉnh nếu thuộc một trong các trường hợp chuyển mục tiêu sử dụng đất. Nội dung này thuộc phạm vi quản lý của pháp luật đất đai và quy hoạch, không nên đưa vào thủ tục điều chỉnh đầu tư.
Bên cạnh đó, dự thảo quy định phải điều chỉnh dự án khi mở rộng diện tích sử dụng đất nhưng chưa xác lập ngưỡng tối thiểu, dẫn đến trường hợp tăng diện tích rất nhỏ (dưới 10%) cũng phải thực hiện điều chỉnh, phát sinh thủ tục không cần thiết. VCCI đề xuất, đặt ngưỡng điều chỉnh ở mức tăng tối thiểu diện tích (khoảng 20%) thì mới kích hoạt thủ tục điều chỉnh dự án.
Trọng Tín