Nỗi ám ảnh rủi ro pháp lý
Tại nhiều diễn đàn, hội thảo và qua các cuộc điều tra của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), mối lo ngại về rủi ro pháp lý luôn thường trực trong cộng đồng doanh nghiệp dân doanh. Điều đáng nói, rủi ro không chỉ đến từ sự thay đổi chính sách thiếu nhất quán, mà còn từ nguy cơ bị hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự thuần túy. Thực tiễn cho thấy, nhiều vụ án hình sự phát sinh từ các tranh chấp hợp đồng, đầu tư, đấu thầu, vay vốn… những lĩnh vực vốn thuộc phạm trù điều chỉnh của pháp luật dân sự, thương mại.
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI chỉ rõ: “Các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa, thường thiếu năng lực pháp lý nội bộ, dẫn đến bị lôi kéo vào vòng tố tụng hình sự khi xảy ra tranh chấp. Trong nhiều trường hợp, bên tranh chấp đã sử dụng tố giác tội phạm như một công cụ để gây áp lực trong thương lượng”.
Ông Đậu Anh Tuấn, Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI
Các tội danh trong Bộ luật Hình sự hiện hành như Trốn thuế (Điều 200), Lừa dối khách hàng (Điều 198), Quảng cáo gian dối (Điều 197), Sản xuất - buôn bán hàng giả (Điều 192), Buôn lậu (Điều 188)... có thể dễ dàng bị áp dụng trong các vụ việc có bản chất kinh tế - dân sự. Đây là những quy định cần được rà soát kỹ lưỡng để phân biệt rõ giữa dấu hiệu tội phạm với hành vi vi phạm hành chính hoặc sai sót trong quá trình kinh doanh.
Hệ quả tất yếu của thực trạng này là sự bào mòn tinh thần đổi mới sáng tạo. Doanh nghiệp trở nên e dè, không dám đầu tư vào những mô hình kinh doanh mới, thận trọng quá mức, thậm chí có xu hướng rút lui khỏi thị trường vì lo ngại bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong những tình huống pháp lý không rõ ràng. Điều này trực tiếp cản trở dòng chảy phát triển của khu vực kinh tế tư nhân - động lực quan trọng của nền kinh tế.
Kinh tế tư nhân cần hành lang pháp lý minh bạch để phát triển
Giải pháp pháp lý: Chuyển từ trừng phạt sang kiến tạo
Để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng thể chế kiến tạo phát triển, thực hiện tốt Nghị quyết 68-NQ/TW và Nghị quyết 198/2025/QH15, ông Tuấn nhấn mạnh điều kiện tiên quyết là phải làm rõ và hạn chế triệt để tình trạng hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự. Theo đó, ba nhóm giải pháp cốt lõi cần được triển khai đồng bộ.
Thứ nhất là sửa đổi các quy định pháp luật có nguy cơ hình sự hóa hoạt động kinh doanh. Việc rà soát và sửa đổi các tội danh kinh tế trong Bộ luật Hình sự cần tuân thủ nguyên tắc: chỉ xử lý hình sự trong những trường hợp thật sự cần thiết, khi hành vi có yếu tố cố ý, gian dối, gây hậu quả nghiêm trọng, không thể khắc phục. Ưu tiên áp dụng các biện pháp hành chính, dân sự, kinh tế trong các trường hợp có thể khắc phục hậu quả.
Chẳng hạn, đối với tội trốn thuế, chỉ nên truy cứu trách nhiệm hình sự khi hành vi có tính hệ thống, gian lận có tổ chức. Các trường hợp kê khai sai, chậm nộp nhưng chủ động khắc phục nên xử lý bằng biện pháp hành chính. Tương tự, các tội như lừa dối khách hàng, quảng cáo gian dối cần được phân định rõ với tranh chấp thương mại thông thường.
Thứ hai là cải cách Bộ luật Tố tụng Hình sự theo hướng bảo vệ doanh nghiệp. Một điểm then chốt là sửa đổi Điều 122 về biện pháp bảo lãnh. Cần mở rộng cơ chế này, cho phép doanh nghiệp sử dụng tài sản, tiền mặt, bảo lãnh ngân hàng để thay thế cho các biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc như tạm giam, kê biên tài sản. Cơ chế bảo lãnh tài chính không chỉ giảm thiểu thiệt hại do gián đoạn kinh doanh mà còn thể hiện tính nhân văn, khuyến khích doanh nghiệp hợp tác.
Bên cạnh đó, pháp luật tố tụng cần chuyển mạnh từ tiền kiểm sang hậu kiểm. Chỉ áp dụng các biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc khi có căn cứ rõ ràng về hành vi phạm tội, nguy cơ tẩu tán tài sản hoặc không hợp tác với cơ quan tố tụng.
Thứ ba là tăng cường hướng dẫn nội ngành và cơ chế tư vấn pháp lý sớm. Để giảm bất định pháp lý, các cơ quan như Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cần ban hành hướng dẫn cụ thể, thống nhất trong việc phân định tranh chấp dân sự - kinh tế với hành vi hình sự. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế tư vấn pháp lý sớm tại các hiệp hội, sở ngành, giúp doanh nghiệp nhận diện và xử lý rủi ro ngay từ đầu.
Với quy mô và tính phức tạp của thách thức, ông Tuấn cho rằng cần một giải pháp tổng thể ở tầm quốc gia. Đó là xây dựng Chương trình hỗ trợ pháp lý cấp quốc gia cho doanh nghiệp tư nhân, huy động sức mạnh tổng hợp từ các tổ chức nghề nghiệp, hiệp hội, luật sư và cơ quan nhà nước.
Chương trình này cần tập trung vào các trụ cột chính: (1) Cung cấp dịch vụ tư vấn pháp lý miễn phí hoặc giá rẻ cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; (2) Đào tạo, nâng cao năng lực pháp lý nội bộ cho doanh nghiệp; (3) Tổ chức đối thoại chính sách thường xuyên để kịp thời tháo gỡ vướng mắc; (4) Thành lập Quỹ hỗ trợ pháp lý để giúp đỡ tài chính cho doanh nghiệp trong các vụ tố tụng phức tạp.
Đặc biệt, việc phát triển một Cổng thông tin pháp lý doanh nghiệp toàn quốc, cập nhật liên tục các quy định, hướng dẫn và kết nối với hệ thống tư vấn địa phương sẽ là công cụ thiết thực, giúp doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận thông tin chính xác, kịp thời.
Có thể thấy, một thể chế kiến tạo phát triển không thể thiếu một môi trường pháp lý an toàn, minh bạch và ổn định. Việc cải cách pháp luật hình sự, tố tụng hình sự theo hướng hỗ trợ thay vì trừng phạt, dân sự hóa thay vì hình sự hóa, cùng với một hệ thống hỗ trợ pháp lý toàn diện, không chỉ là yêu cầu cấp bách từ thực tiễn mà còn là nền tảng then chốt để khơi thông mọi dòng chảy đổi mới, sáng tạo và đầu tư. Khi doanh nghiệp không còn phải đối mặt với nỗi ám ảnh bị hình sự hóa từ những rủi ro kinh doanh thông thường, họ sẽ mạnh dạn bứt phá, góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của đất nước. Đây không chỉ là một cuộc cải cách pháp lý, mà thực sự là một chiến lược phát triển quốc gia.
Bình Minh