Gỡ vướng khung thể chế đầu tư tài chính chuyển đổi xanh

Gỡ vướng khung thể chế đầu tư tài chính chuyển đổi xanh
3 giờ trướcBài gốc
Thách thức trong huy động tài chính năng lượng
Theo Tiến sỹ Ngô Trí Long-chuyên gia kinh tế, một trong những rào cản lớn nhất trong việc huy động nguồn lực tài chính cho chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam là cơ chế giá điện chưa thực sự phản ánh đúng chi phí đầu tư, mức độ rủi ro và kỳ vọng lợi nhuận của khu vực tư nhân - đặc biệt là các nhà đầu tư chiến lược và các định chế tài chính quốc tế. Cụ thể, cơ chế xác định giá trần trong đấu thầu các dự án năng lượng tái tạo, bao gồm điện mặt trời, điện gió chủ yếu dựa trên khung tính toán nội địa, chưa phản ánh đầy đủ các yếu tố về rủi ro tài chính, chi phí vốn vay và chi phí phòng ngừa rủi ro tỷ giá mà nhà đầu tư nước ngoài thường phải đối mặt.
Bên cạnh đó, hợp đồng mua bán điện (PPA) thiếu tính ràng buộc dài hạn và bảo lãnh rủi ro nên các dự án năng lượng tái tạo tại Việt Nam không thể được xếp hạng tín dụng ở mức chấp nhận được để giải ngân. Vì vậy, chỉ 15% dự án điện tái tạo ở Việt Nam có thể tiếp cận được nguồn vay dài hạn bằng ngoại tệ từ các định chế tài chính quốc tế, chủ yếu nhờ có bảo lãnh từ các quỹ phát triển (báo cáo của ADB năm 2024) trong khi phần lớn các dự án khác phải vay bằng đồng nội tệ với lãi suất cao hơn 3-5 điểm phần trăm. Ngoài ra, khả năng gọi vốn xanh quốc tế cũng bị hạn chế và đang thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực như Thái Lan hay Indonesia.
Thách thức thứ hai chính là khung pháp lý cho tài chính xanh còn thiếu và phân tán; trong đó thiếu luật khung về thị trường carbon và định giá phát thải; quy định về trái phiếu xanh còn phân tán, chưa khuyến khích mạnh mẽ nhà phát hành nên từ năm 2019 đến năm 2024, tổng giá trị trái phiếu xanh phát hành tại Việt Nam chiếm chưa đến 0,1% tổng giá trị thị trường trái phiếu doanh nghiệp, so với tỷ lệ 5-6% tại các nước ASEAN như Thái Lan, Malaysia hay Singapore ((báo cáo của ADB năm 2024). Thêm vào đó, cơ chế cho chứng chỉ năng lượng tái tạo (REC) chưa rõ ràng; thiếu khung pháp lý đồng bộ khiến nhiều doanh nghiệp Việt Nam mất cơ hội tiếp cận các dòng vốn ưu đãi lớn từ quốc tế như Quỹ Khí hậu Xanh (GCF), Quỹ Phát triển bền vững (SDG Fund), các mô hình tài chính hỗn hợp…
Thách thức thứ ba chính là khoảng trống trong việc dẫn dắt vốn của Nhà nước thông qua các định chế tài chính công có năng lực, tương tự mô hình “Ngân hàng Tái thiết Xanh” (Green Development Bank - GDB) đã được thiết lập thành công ở nhiều quốc gia như Đức, Hàn Quốc hay Anh. Trong khi đó, việc thành lập một “Ngân hàng Phát triển Xanh” là bước đi chiến lược để giảm thiểu rủi ro đầu tư cho khu vực tư nhân; khơi thông nguồn vốn quốc tế; tăng cường hiệu quả sử dụng vốn công; bảo đảm tiến độ hiện thực hóa cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050, chuyên gia Ngô Trí Long cho biết.
Thí điểm mô hình Ngân hàng Năng lượng Quốc gia
Tại Diễn đàn Dầu khí và Năng lượng thường niên 2025 vừa qua do Hội Dầu khí Việt Nam tổ chức, các đại biểu đã kiến nghị luật hóa tài chính xanh, chuẩn hóa định mức đầu tư cho công nghệ mới, thiết kế hợp đồng mua bán điện linh hoạt theo vùng, công nghệ, quy mô, với các dự án trọng điểm cần có giá tham chiếu sát thực tế và cơ chế bao tiêu rõ ràng; tăng cường vai trò điều phối của Nhà nước thông qua định chế tài chính công và cơ chế bảo lãnh rủi ro cho các dự án năng lượng mới.
Để tháo gỡ các vướng mắc về tài chính, ông Nguyễn Đức Hiển, Phó Trưởng Ban Chính sách, chiến lược Trung ương cho rằng cần có cơ chế thu hút khối tư nhân đầu tư vào các dự án chuyển dịch năng lượng; trong đó có cơ chế đối tác công tư. Hiện tổng nguồn cho chuyển đổi xanh từ hệ thống ngân hàng chỉ chiếm con số rất thấp là 4,36% nên phải có định chế đặc biệt.
Theo ông Hiển, nếu cứ tiếp cận thông thường như hiện nay sẽ rất khó bởi vấn đề lợi ích là mấu chốt để thu hút khối tư nhân. Bên cạnh đó, phải cải cách thị trường điện, cơ chế mua bán điện, giá điện, giải quyết các vấn đề tồn đọng từ bán buôn đến bán lẻ.
Từ góc độ doanh nghiệp, đại diện Công ty cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn đề xuất xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý đồng bộ, ổn định, dài hạn đối với các lĩnh vực mới và trọng yếu trong quá trình chuyển dịch năng lượng, bao gồm: công nghệ thu hồi, sử dụng và lưu trữ carbon (CCUS), cơ chế tín chỉ carbon, nhiên liệu hàng không bền vững (SAF), nhiên liệu sinh học thế hệ mới. Bên cạnh đó, việc xây dựng chính sách ưu đãi tín dụng xanh cho các dự án đầu tư công nghệ sạch, tuần hoàn carbon là rất cần thiết để thúc đẩy chuyển dịch xanh tại các doanh nghiệp. Ngoài ra, việc áp dụng cơ chế miễn, giảm thuế đối với các hoạt động đầu tư, sản xuất sản phẩm xanh, thân thiện môi trường cũng là giải pháp thiết thực hiệu quả để doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào các dự án xanh.
Trong khi đó, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long đề xuất thí điểm mô hình Ngân hàng Năng lượng Quốc gia (National Energy Bank) trong bối cảnh nhu cầu đầu tư cho chuyển dịch năng lượng tại Việt Nam đang tăng trưởng mạnh mẽ nhưng hệ thống tài chính hiện hành chưa đủ sức đáp ứng về quy mô.
Cũng theo ông Ngô Trí Long, với vai trò là doanh nghiệp nhà nước chủ lực trong lĩnh vực năng lượng, Tập đoàn Công nghiệp - Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) có thể đồng sáng lập Ngân hàng Năng lượng Quốc gia. Theo đó, Petrovietnam có thể phối hợp với các ngân hàng thương mại lớn như BIDV, Agribank, Vietcombank và sự bảo trợ của Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, để hình thành một định chế tài chính chuyên trách Ngân hàng Năng lượng Quốc gia. Khi đó, ngân hàng Năng lượng Quốc gia có thể tập trung cung cấp tín dụng trung và dài hạn (15-25 năm) cho các dự án năng lượng tái tạo, lưu trữ năng lượng, hydrogen xanh, điện gió ngoài khơi; phối hợp với Quỹ chuyển dịch năng lượng Petrovietnam, tạo thành hệ sinh thái tài chính hỗn hợp (blended finance) hỗ trợ đổi mới công nghệ. Ngân hàng này có thể phát hành trái phiếu xanh để huy động vốn từ thị trường quốc tế với lãi suất ưu đãi; huy động nguồn vốn từ các cơ chế thị trường carbon trong và ngoài nước; tài trợ lại cho các startup và nhà đầu tư nhỏ những đối tượng khó tiếp cận vốn vay thương mại truyền thống, đặc biệt tại khu vực nông thôn và hải đảo. Đồng thời chia sẻ rủi ro Nhà nước tham gia thông qua quỹ bảo lãnh rủi ro đầu tư năng lượng (theo mô hình của Green Guarantee Facility - GGF của EU).
Thực tế trên thế giới cũng cho thấy KfW (Đức) là ngân hàng phát triển nhà nước đã tài trợ hơn 80 tỷ EUR cho các dự án năng lượng sạch tại châu Âu, với tỷ lệ đòn bẩy tài chính (leverage ratio) lên đến 1:5. Green Bank (Anh) huy động hơn 15 tỷ GBP từ khu vực tư nhân chỉ trong 5 năm đầu, chủ yếu thông qua trái phiếu xanh và hợp tác công - tư. Indonesia Infrastructure Finance (IIF) là ngân hàng phát triển hợp tác giữa chính phủ Indonesia và WB/ ADB, chuyên tài trợ các dự án hạ tầng năng lượng dài hạn.
"Mô hình Ngân hàng Năng lượng Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi các thể chế này nhưng cần được bản địa hóa, kết hợp giữa vai trò điều phối của Nhà nước, năng lực kỹ thuật của Petrovietnam và nguồn lực thị trường", ông Ngô Trí Long đề xuất./.
Anh Nguyễn/TTXVN
Nguồn Doanh Nhân VN : https://doanhnhanvn.vn/go-vuong-khung-the-che-dau-tu-tai-chinh-chuyen-doi-xanh.html