Góc nhìn pháp lý vụ giữ 37,5 triệu tiền làm răng của khách bị tội tham ô

Góc nhìn pháp lý vụ giữ 37,5 triệu tiền làm răng của khách bị tội tham ô
3 giờ trướcBài gốc
Trong vụ án "Giữ tiền làm răng của khách, 2 nhân viên phòng khám nha khoa vướng lao lý", như PLO đã thông tin, ngày 11-8, VKSND khu vực 4-TP.HCM đã ban hành cáo trạng (lần 2) truy tố bị can Phan Ngọc Thanh Tâm (ngụ TP.HCM) và Châu Văn Sang (ngụ Gia Lai) về tội tham ô tài sản.
Trong đó, Tâm bị truy tố theo khoản 2 Điều 353 BLHS thuộc trường hợp phạm tội hai lần trở lên (khung hình phạt 7-15 năm tù), còn Sang bị truy tố theo khoản 1 Điều 353 (khung hình phạt từ 2-7 năm tù, cáo trạng lần 1 truy tố Sang theo Khoản 2).
Trước đó, TAND quận 10 (cũ) đã tuyên Tâm 8 năm tù, Sang 7 năm tù, cùng về tội tham ô tài sản. Tuy nhiên, khi xử phúc thẩm, TAND TP.HCM đã tuyên hủy toàn bộ bản án sơ thẩm, trả hồ sơ để điều tra lại vì có nhiều tình tiết liên quan đến vụ án chưa được điều tra làm rõ.
Sau khi PLO đăng tải thông tin vụ việc, nhiều ý kiến bạn đọc cho rằng mức án sơ thẩm lần 1 đã tuyên là chưa hợp lý.
Để rộng đường dư luận, chúng tôi đã ghi nhận ý kiến của một số chuyên gia về vụ việc này.
***
TS TRẦN THANH THẢO, Trường ĐH Luật TP.HCM:
Chưa đáp ứng điều kiện về chủ thể tội tham ô, có dấu hiệu của tội lừa đảo
Để cấu thành tội tham ô tài sản tại các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước thì chủ thể của tội phạm phải là người có chức vụ, quyền hạn liên quan đến việc quản lý tài sản của các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước.
TS Trần Thanh Thảo.
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 352 BLHS, khoản 4 Điều 2 Nghị quyết 03/2020/NQ-HĐTP (hướng dẫn xét xử tội phạm tham nhũng và tội phạm về chức vụ) và khoản 2 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng thì người có chức vụ, quyền hạn có thể là người do hợp đồng, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện nhiệm vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện nhiệm vụ đó.
Theo quy định tại Điều 14 và Điều 21 Bộ luật Lao động thì hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và nội dung hợp đồng lao động phải thể hiện rõ nhiệm vụ công việc của người lao động, trừ trường hợp hợp đồng có thời hạn dưới 01 tháng thì có thể giao kết bằng lời nói.
Dựa theo hồ sơ vụ việc thì quan hệ lao động giữa Sang và Tâm với công ty cổ phần K Center – K Dentist chỉ là thỏa thuận miệng, không được giao kết bằng văn bản theo đúng quy định của pháp luật nên cũng không thể hiện được nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Sang và Tâm trong quá trình làm việc.
Do đó, chưa đủ cơ sở để xác định Sang và Tâm là người có chức vụ, quyền hạn tại công ty cổ phần K Center – K Dentist, tức chưa đáp ứng điều kiện về chủ thể của tội tham ô tài sản.
Bên cạnh đó, đối tượng tác động của tội tham ô tài sản tại các doanh nghiệp, tổ chức ngoài nhà nước bắt buộc phải là tài sản thuộc sở hữu của các doanh nghiệp, tổ chức này mà người phạm tội có trách nhiệm quản lý.
Tuy nhiên, khi xem xét các tình tiết của vụ án thì có thể nhận thấy: Sau khi Sang và Tâm tư vấn cho khách hàng thì hai người này không cung cấp số tài khoản ngân hàng của công ty mà đã cung cấp số tài khoản ngân hàng cá nhân của họ và đề nghị khách hàng chuyển tiền vào các tài khoản này.
Như vậy, cần phải làm rõ về việc số tiền mà khách hàng chuyển khoản vào tài khoản cá nhân của Sang và Tâm đã được coi là tài sản thuộc sở hữu của công ty cổ phần K Center – K Dentist hay chưa. Nếu số tiền này chưa được coi là tài sản thuộc sở hữu của công ty cổ phần K Center – K Dentist thì chưa đủ yếu tố cấu thành tội tham ô tài sản.
Ngoài ra, dựa theo nội dung của cáo trạng thì khi khách hàng muốn thanh toán bằng hình thức chuyển khoản, Sang và Tâm phải đưa khách hàng số tài khoản ngân hàng của công ty để khách hàng chuyển khoản thanh toán cho công ty.
Tuy nhiên, Sang và Tâm không đưa khách hàng số tài khoản của công ty mà lại tự ý cung cấp số tài khoản cá nhân của mình để đề nghị khách hàng chuyển tiền. Chẳng hạn trường hợp khách hàng T.N.H nhắn tin cho Tâm xin số tài khoản công ty để chuyển tiền nhưng do muốn chiếm đoạt số tiền này, Tâm không cung cấp số tài khoản công ty mà Tâm lại cung cấp số tài khoản cá nhân của Tâm. Đây có thể coi là hành vi sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản người khác và có thể cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS) nếu chứng minh được tại thời điểm cung cấp số tài khoản cá nhân, Tâm đã có ý định chiếm đoạt số tiền này.
Giữ tiền của khách vì... công ty đang nợ lương
Kết luận điều tra và cáo trạng xác định bị can Tâm chiếm đoạt tổng cộng 37,5 triệu đồng của ba khách hàng nên đề nghị truy tố ở khoản 2 Điều 353. Còn bị can Sang xác định chỉ chiếm đoạt 10 triệu đồng (trước đó xác định chiếm đoạt 20 triệu) của một khách hàng nên truy tố ở khoản 1.
Liên quan đến kết luận điều tra lại, bị can Tâm đã có đơn khiếu nại vì cho rằng cần xem xét, đánh giá bối cảnh, hoàn cảnh thực hiện hành vi một cách toàn diện để có một kết luận khách quan, đúng bản chất của vụ việc.
Bị can Tâm thừa nhận đã giữ khoản tiền của hai khách tổng cộng 27,5 triệu đồng là khoản thu phát sinh trong tháng 5-2022, còn khoản 10 triệu đồng mà bị can Sang chuyển là khoản tiền mượn riêng của Sang (không biết tiền đó là của khách).
Mặt khác các khoản tiền giữ của khách là tiền mà khách hàng trả trước và chưa sử dụng dịch vụ phòng khám (tại các bút lục số 64,68,80 đều ghi nhận cho đến ngày 14-12-2022 tình trạng đơn hàng chưa hoàn thành). Quá trình làm răng thực hiện qua nhiều giai đoạn: khám răng, lấy form, lấy tủy răng, định khung, gắn răng ….khách hàng có thể trả tiền theo từng giai đoạn làm răng nếu muốn. Khoản tiền nhận trước này không thể xem là tiền của công ty, do công ty chưa làm đến dịch vụ này cho khách.
Đồng thời, thời gian chủ phòng khám đi tố giác trùng với thời gian nghỉ việc (bị can Sang nghỉ do bị Covid, Tâm do thai yếu nên đã tạm nghỉ, làm việc từ xa).
"Trong tháng 6-2022 tôi có thai và thai yếu, cần tiền để đi dưỡng thai, cộng thêm phòng nha còn đang nợ tiền lương của tôi nên tôi đã giữ lại khoản tiền khách hàng trả trước chờ đợi lương tháng 6 khi công ty chuyển tiền thì tôi sẽ chuyển qua máy POS để thanh toán tiền làm dịch vụ cho khách hàng.
Nhưng sau đó chủ phòng khám lại cho tôi nghỉ hẳn việc, không trả lương tháng 6, tố giác tôi chiếm đoạt tiền đến công an"- bị can Tâm nói.
Trao đổi với Pháp Luật TP.HCM, ông LQB (chủ phòng khám nha khoa) cho biết tài sản của Công ty bị chiếm đoạt nên làm đơn tố giác đến cơ quan chức năng, đồng thời cung cấp các tài liệu, chứng cứ có liên quan để cơ quan Công an giải quyết theo quy định của pháp luật.
Luật sư NGUYỄN NGUYỆN XUÂN THẢO, Đoàn Luật sư TP.HCM:
Để xác định có hành vi phạm tội tham ô tài sản hay không trong trường hợp này phải xác định được: Thứ nhất trong công ty bị can Tâm có phải là thủ quỹ của công ty, có quản lý tiền thu được từ khách hàng hay không hay chỉ là tạm thu từ các nhân viên khác rồi cuối ngày chuyển cho bộ phận kế toán. Cạnh đó, số tiền mà khách hàng trả trước, khi chưa sử dụng dịch vụ có phải là tài sản của công ty hay không.
Tiếp đến, hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội tham ô tài sản là hành vi làm cho công ty mất quyền kiểm soát, mất quyền quản lý đối với tài sản bị chiếm đoạt. Tuy nhiên trong trường hợp này bị can Tâm vẫn báo cáo đầy đủ các dịch vụ khách hàng đăng ký làm, công ty vẫn biết về khoản tiền mà khách hàng phải trả. Công ty vẫn có thể kiểm soát và quản lý khoản tiền này.
Luật sư ĐẶNG KIM CHINH, Đoàn Luật sư TP.HCM:
Có thể xét đến tình tiết “người bị hại cũng có lỗi”
Đối với tội tham ô tài sản tại khu vực tư nhân, hiện nay không ít doanh nghiệp tại khu vực tư nhân, đặc biệt là lĩnh vực dịch vụ, thương mại, quy trình quản lý dòng tiền thu từ khách hàng rất lỏng lẻo.
Ví dụ như nhân viên tư vấn đồng thời thực hiện thu tiền của khách, giữ tiền mặt nhiều ngày trước khi nộp về doanh nghiệp. Không tách bạch giữa tiếp thị – ký hợp đồng – thu tiền – nộp tiền, chứng từ biên nhận không thống nhất hoặc chỉ lập theo mẫu nội bộ, khó đối chiếu độc lập.
Luật sư Đặng Kim Chinh, Đoàn Luật sư TP.HCM. Ảnh: NCVV
Tình trạng này đặt người lao động, vốn đa phần có thu nhập thấp và áp lực tài chính cao, vào môi trường rủi ro phạm tội. Khi vụ việc xảy ra, trách nhiệm hình sự và dân sự thường dồn hết lên người lao động, còn doanh nghiệp nghiễm nhiên là “bị hại”.
Đáng chú ý, trong một số trường hợp, “sơ hở trong quản lý” không phải do bất cẩn, mà là chủ ý của chủ sở hữu hưởng lợi và/hoặc người quản lý để giữ dòng tiền hoặc số liệu ở trạng thái “khó kiểm soát” nhằm: Khống chế hoặc điều chỉnh doanh thu đầu vào (để né thuế, điều chỉnh báo cáo tài chính...)
Do đó, nếu chứng minh được cơ chế sơ hở (cho phép nhân viên giữ tiền khách hàng trong thời gian dài mà không nộp, không có biện pháp kiểm soát) là chủ trương, quyết định của chủ sở hữu hưởng lợi và/hoặc người quản lý công ty để phục vụ lợi ích bất chính của họ, thì sơ hở này không còn là bất cẩn đơn thuần mà là hành vi quản lý có mục đích.
Trong trường hợp này, doanh nghiệp là bị hại. Tuy nhiên, doanh nghiệp lại do chủ sở hữu và/hoặc người quản lý trực tiếp điều hành, kiểm soát. Nếu hành vi tạo sơ hở trong quản lý xuất phát từ ý chí chủ động và quyết định có chủ đích của chính chủ sở hữu hưởng lợi và/hoặc người quản lý, thì lỗi đó gắn trực tiếp với chính bị hại (doanh nghiệp). Nói cách khác, lỗi của bị hại ở đây thực chất là lỗi của chính chủ sở hữu hưởng lợi và/hoặc người quản lý doanh nghiệp cố ý gây ra.
Do đó, trong vụ việc này có thể xem xét đến tình tiết "người bị hại cũng có lỗi" để xem xét áp dụng một trong những tình tiết giảm nhẹ trong nhóm tình tiết khác theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS 2015 (sửa đổi bổ sung 2017) và theo tinh thần của Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC.
ThS NGUYỄN ĐỨC HIẾU, Trường ĐH Quốc tế, ĐHQG TP.HCM:
ThS Nguyễn Đức Hiếu.
Nhiều vấn đề cần làm rõ
Về yếu tố chủ thể, mặc dù hiện tại "chưa đủ cơ sở xác định các bị can là người có chức vụ, quyền hạn tại công ty" do chỉ là cộng tác viên, thiếu hợp đồng lao động chính thức. Tuy nhiên, nếu điều tra có thể chứng minh được thực chất họ được giao nhiệm vụ quản lý, thu tiền từ khách hàng một cách thường xuyên và có thẩm quyền quyết định trong quy trình làm việc, thì yếu tố "người có chức vụ, quyền hạn" có thể được thiết lập.
Về khách thể tội phạm, mặc dù công ty hiện không có bất cứ văn bản nào thể hiện các quy định về tổ chức, quản lý, nhưng nếu làm rõ được cơ cấu tổ chức thực tế, vai trò của từng người trong hoạt động kinh doanh và chứng minh được tài sản bị chiếm đoạt thực sự thuộc sở hữu của công ty (chứ không phải tiền ứng trước của khách hàng), thì yếu tố khách thể có thể được xác lập.
Về mối quan hệ nhân quả, cần điều tra kỹ lưỡng hơn để phân biệt rõ giữa việc "các bị cáo còn giữ tiền là nhằm chờ đối chiếu với khoản nợ lương, thưởng của công ty" với hành vi cố ý chiếm đoạt, đồng thời làm rõ bản chất pháp lý của số tiền - liệu đó có phải là tài sản của công ty hay chỉ là khoản tiền ứng trước của khách hàng cho dịch vụ chưa hoàn thành.
Đặt vấn đề quá trình xét xử sau đó xác định Tâm và Sang không phạm tội Tham ô tài sản do yếu tố chủ thể không đủ căn cứ cấu thành tội phạm thì trong vụ án này vẫn có thể xem xét về khả năng cấu thành các tội danh khác.
Dựa trên các sự kiện đã được xác định trong bản án phúc thẩm, hành vi của Phan Ngọc Thanh Tâm và Châu Văn Sang có dấu hiệu của tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 BLHS. Theo quy định này thì chủ thể tội phạm là người được giao quản lý, sử dụng tài sản của người khác mà lạm dụng sự tin cậy đó để chiếm đoạt tài sản.
Trong vụ án, cả hai bị cáo đều được giao nhiệm vụ cụ thể là tư vấn kiểm thu ngân, thu tiền từ khách hàng và các nhân viên tư vấn khác nộp về sau đó phải nộp lại kế toán Công ty ngay trong ngày. Việc khách hàng giao tiền cho họ dựa trên sự tin tưởng về việc thực hiện dịch vụ nha khoa, nhưng họ đã lợi dụng quyền hạn của mình, Tâm và Sang đã thực hiện các hành vi chiếm đoạt tiền của công ty.
Trong khi đó, nếu có đủ căn cứ chứng minh các bị cáo đã sử dụng thủ đoạn gian dối ngay từ khi tiếp nhận tiền của khách hàng với ý định không hoàn trả hoặc không thực hiện dịch vụ thì có dấu hiệu của tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS. Cả hai tội danh này đều phù hợp hơn với bản chất quan hệ pháp lý thực tế giữa các bên và không đòi hỏi yếu tố chủ thể đặc biệt như tội tham ô.
HỮU ĐĂNG - SONG MAI
Nguồn PLO : https://plo.vn/goc-nhin-phap-ly-vu-giu-375-trieu-tien-lam-rang-cua-khach-bi-toi-tham-o-post865183.html