Tuy nhiên, Ban soạn thảo cần tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện dự thảo Luật để vừa tạo thuận lợi cho các cơ sở giáo dục đại học, vừa kiểm soát được chất lượng đào tạo.
Nên cho phép “giao quyền hoặc ủy quyền” phê duyệt chương trình đào tạo
Khoản 2, Điều 24, dự thảo Luật quy định, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo phê duyệt chương trình đào tạo đối với các ngành đào tạo giáo viên, sức khỏe và pháp luật. Đại biểu Nguyễn Hữu Thông đồng tình với yêu cầu tăng cường kiểm soát việc đào tạo ba nhóm ngành đặc thù này.
Thực tiễn thời gian qua cho thấy tốc độ mở ngành và phát triển cơ sở đào tạo trong các lĩnh vực trên diễn ra rất nhanh, đặc biệt là khối ngành luật và sức khỏe. Sự phát triển nóng, trong khi điều kiện bảo đảm chất lượng - gồm đội ngũ giảng viên cơ hữu, cơ sở thực hành, bệnh viện thực tập, phòng thí nghiệm, cơ sở kỹ thuật - chưa được đầu tư tương xứng, đã dẫn tới nhiều hệ lụy: chất lượng đào tạo giữa các cơ sở không đồng đều; thiếu hụt giờ thực hành, thực tập tại bệnh viện; thuê mượn giảng viên cơ hữu để hợp thức hóa mở ngành; và rủi ro người học tốt nghiệp nhưng không đáp ứng được chuẩn nghề nghiệp. Các vấn đề này đã được phản ánh trong nhiều đoàn kiểm tra, giám sát và trong báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa và Xã hội.
“Do đó, việc tập trung thẩm quyền phê duyệt chương trình đối với ba nhóm ngành này ở cấp Bộ trưởng là phù hợp với yêu cầu kiểm soát chất lượng đầu vào, bảo đảm không để xảy ra tình trạng các cơ sở đào tạo mở ngành vượt quá năng lực thực tế, đặc biệt trong các lĩnh vực gắn trực tiếp với sức khỏe, an toàn tính mạng nhân dân và hoạt động của hệ thống tư pháp”, đại biểu Nguyễn Hữu Thông nhấn mạnh.
ĐBQH Nguyễn Hữu Thông (Lâm Đồng). Ảnh: Quang Khánh
Tuy nhiên, cần nhìn nhận rằng số lượng chương trình đào tạo thuộc ba lĩnh vực sư phạm, sức khỏe và pháp luật rất lớn; số cơ sở đào tạo trong cả nước cũng ở mức cao.
Hiện nay cả nước có khoảng 103 cơ sở đào tạo giáo viên, 70 cơ sở đào tạo sức khỏe và 67 cơ sở đào tạo pháp luật. Mỗi nhóm lại phát triển thêm nhiều ngành, chuyên ngành và chương trình đào tạo khác nhau. Nếu toàn bộ chương trình đào tạo đều phải tập trung về Bộ Giáo dục và Đào tạo để phê duyệt thì sẽ tạo áp lực lớn cho Bộ, dễ dẫn tới quá tải trong thẩm định, kéo dài thời gian xử lý hồ sơ, ảnh hưởng đến tiến độ mở ngành và triển khai đào tạo của các cơ sở.
Vì vậy, đại biểu Nguyễn Hữu Thông đề xuất bổ sung quy định cho phép Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo “giao quyền hoặc ủy quyền” cho một số đại học trọng điểm, có uy tín và có bề dày đào tạo được thực hiện phê duyệt các chương trình đào tạo đối với các ngành đạo tạo nêu trên. Bởi các cơ sở giáo dục đại học này đều có hệ thống kiểm định nội bộ, đội ngũ chuyên gia đầu ngành và kinh nghiệm quản trị học thuật đủ mạnh để đảm nhiệm việc thẩm định, phê duyệt các chương trình đào tạo trong phạm vi được giao.
Quy định như vậy vừa giúp giảm tải đáng kể khối lượng công việc cho Bộ trưởng, vừa rút ngắn thời gian phê duyệt nhờ năng lực chuyên môn sẵn có của các đại học trọng điểm. Đồng thời, cơ chế này tạo điều kiện để các đại học đầu tàu phát huy đầy đủ vai trò, vị thế và sứ mệnh dẫn dắt hệ thống giáo dục đại học quốc gia; từ đó nâng cao chất lượng thẩm định, tăng tính linh hoạt, mở rộng khả năng phát triển các chương trình đào tạo mới, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và chuẩn mực nghề nghiệp.
Phân định rõ nhóm quyền tự chủ hoàn toàn của cơ sở giáo dục đại học
Qua nghiên cứu, tôi thấy rằng khoản 2, Điều 3 và khoản 1, Điều 14 của dự thảo Luật chưa thật sự tương thích về phạm vi, nội hàm của quyền tự chủ. Cụ thể, tại khoản 2, Điều 3, dự thảo Luật, tự chủ được hiểu là “quyền được chủ động quyết định và chịu trách nhiệm giải trình theo quy định của pháp luật về hoạt động chuyên môn học thuật, đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế, tổ chức, nhân sự, tài chính và những lĩnh vực hoạt động khác”. Khoản 1, Điều 14 liệt kê 4 nội dung tự chủ nhưng điểm b, c, d lại viện dẫn “theo quy định pháp luật khác có liên quan”.
Thực tế là các “quyền tự chủ” bị giới hạn, nhất là đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập phải tuân thủ Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Cán bộ công chức, Luật Viên chức…
Dự thảo Luật Giáo dục đại học (sửa đổi) được đánh giá có nhiều điểm mới, thể hiện tinh thần đột phá về quyền tự chủ, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế. Ảnh: VNU
Ví dụ, các cơ sở giáo dục đại học công lập tự chủ tài chính vẫn bị ràng buộc bởi những quy định khác liên quan đến công tác tổ chức, gây khó khăn trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, trong khi các trường tư thục không bị ràng buộc vấn đề này; hay quy định số lượng tối đa 03 Phó Hiệu trưởng không phân biệt quy mô trường; hoặc điều kiện thành lập đơn vị phòng/khoa phải có ít nhất 07 người, đã cản trở việc tổ chức bộ máy linh hoạt theo mô hình tự chủ.
Trong thực tế, một số cơ sở giáo dục đại học có quy mô lớn, đào tạo nhiều ngành nghề, lĩnh vực, thì cần được tự chủ quyết định số Phó Hiệu trưởng nhiều hơn để có thể tham gia nhiều hoạt động mang tính đại diện của trường; hoặc nhà trường chỉ có nhu cầu thành lập phòng chuyên trách về một lĩnh vực với 05 nhân sự giỏi về chuyên môn.
Từ phân tích trên, đại biểu Nguyễn Hữu Thông kiến nghị bổ sung nguyên tắc phân định rõ nhóm quyền mà cơ sở giáo dục đại học được tự chủ hoàn toàn và nhóm quyền phải tuân thủ pháp luật chuyên ngành, nhằm bảo đảm tính thống nhất, minh bạch và phù hợp với tinh thần tự chủ đại học.
Đưa chỉ tiêu tuyển sinh trở về đúng năng lực
Chức danh giảng viên cơ hữu được viện dẫn đến Điều 66, dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục. Theo đó, “nhà giáo cơ hữu là nhà giáo được tuyển dụng và thực hiện chế độ làm việc toàn thời gian tại duy nhất một cơ sở giáo dục”. Tuy nhiên, thực tiễn quy định này bị lợi dụng trong việc thuê bằng để tính chỉ tiêu tuyển sinh, nhất là khối các trường đại học tư thục, vì chưa ràng buộc điều kiện cứng nào để xác định “làm việc toàn thời gian”.
Đại biểu Nguyễn Hữu Thông đề nghị bổ sung quy định: “giảng viên cơ hữu là người được cơ sở giáo dục đại học tuyển dụng theo vị trí việc làm, thực hiện chế độ làm việc toàn thời gian tại duy nhất một cơ sở giáo dục đại học và được cơ sở này đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định của pháp luật. Việc xác định giảng viên cơ hữu là căn cứ để tính toán chỉ tiêu tuyển sinh và điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo của cơ sở giáo dục đại học”.
Theo đại biểu Nguyễn Hữu Thông, “quy định này không chỉ khắc phục triệt để tình trạng giảng viên cơ hữu ảo, mà còn bảo đảm thực thi thống nhất với các Điều 9, Điều 14 và Điều 25 của dự thảo Luật, góp phần đưa chỉ tiêu tuyển sinh trở về đúng năng lực, bảo vệ quyền lợi người học và bảo đảm công bằng giữa các loại hình cơ sở giáo dục đại học”.
Hà Hương