Góp ý hoàn thiện Đề án đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học

Góp ý hoàn thiện Đề án đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học
3 giờ trướcBài gốc
Thứ trưởng Thường trực Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng chủ trì phiên họp.
Chiều 22/9, tại Bộ GD&ĐT, Hội đồng Quốc gia giáo dục và phát triển nhân lực tổ chức phiên họp xin ý kiến góp ý dự thảo Đề án đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2045.
Thứ trưởng Thường trực Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng chủ trì phiên họp. Cùng dự có ông Đinh Công Sỹ, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa và Xã hội của Quốc hội; các chuyên gia, nhà khoa học; đại diện các bộ ngành và các sở GD&ĐT.
3 giai đoạn thực hiện với 8 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
Ông Thái Văn Tài - Vụ trưởng Vụ Giáo dục Phổ thông cho biết: Đề án đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ 2 trong trường học giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2045 (Đề án) được xây dựng với 5 phần chính gồm: Quan điểm; mục tiêu; nhiệm vụ và giải pháp; kinh phí thực hiện; tổ chức thực hiện.
Trong Đề án, mục tiêu cụ thể được chia ra làm ba giai đoạn (giai đoạn 2025-2030, giai đoạn 2030-2040 và giai đoạn 2040-2045) cho từng cấp học (gồm: Giáo dục mầm non, Giáo dục phổ thông, Giáo dục đại học, Giáo dục nghề nghiệp, Giáo dục thường xuyên).
Mục tiêu cụ thể được xây dựng với các chỉ số phấn đấu cho từng cấp học trong hệ thống giáo dục quốc dân để thể hiện 3 mức độ đạt được trong đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai với bộ tiêu chuẩn đánh giá gồm 7 tiêu chí. 7 tiêu chí này được xây dựng theo hai cấu phần: tiêu chí bắt buộc và tiêu chí phân tầng.
Bộ tiêu chí này gắn với các điều kiện bảo đảm, cơ sở vật chất, chất lượng đội ngũ, kế hoạch giảng dạy, tổ chức các hoạt động giáo dục, dịch vụ hành chính, nghiên cứu khoa học, công nghệ bám sát theo các quy định của Bộ GD&ĐT. Bên cạnh đó là một số nội dung mới, gắn với thực tiễn thể hiện sự vào cuộc của các cơ sở giáo dục khi phấn đấu đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong nhà trường.
Ông Thái Văn Tài - Vụ trưởng Vụ Giáo dục Phổ thông báo cáo tại phiên họp.
Đề án đưa ra 8 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu, bao gồm: Nâng cao nhận thức của toàn xã hội về vai trò của tiếng Anh trong giáo dục và hội nhập; Xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học;
Phát triển đội ngũ và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý, giáo viên, giảng viên dạy tiếng Anh và dạy bằng tiếng Anh, bảo đảm đủ về số lượng, đồng bộ về chất lượng;
Xây dựng và triển khai chương trình, học liệu phục vụ dạy học tiếng Anh, dạy học bằng tiếng Anh; Đổi mới phương pháp dạy học, phương thức thi, kiểm tra, đánh giá, đẩy mạnh xây dựng môi trường tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học;
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến, trí tuệ nhân tạo (AI), tăng cường điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm chất lượng cho phát triển hoạt động giáo dục song ngữ, dạy học tiếng Anh, dạy học bằng tiếng Anh, ưu tiên cho khu vực khó khăn và đặc biệt khó khăn;
Tăng cường hợp tác quốc tế, đẩy mạnh xã hội hóa và hợp tác công – tư trong nâng cao chất lượng dạy học tiếng Anh, dạy học bằng tiếng Anh; Phát động phong trào thi đua, khen thưởng thiết thực, hiệu quả, làm động lực thúc đẩy triển khai Đề án trên toàn quốc.
Đề án được áp dụng trong tất cả các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục thường xuyên trên cả nước. Ước tính có khoảng 50.000 cơ sở giáo dục với gần 30 triệu trẻ em, học sinh, sinh viên và khoảng 1 triệu cán bộ quản lý, giáo viên ở tất cả các cấp học, ngành học, ngành đào tạo chịu ảnh hưởng của Đề án này.
Các chuyên gia, cán bộ quản lý phát biểu tại phiên họp.
3 nội dung xin ý kiến
Tại phiên họp, các thành viên Hội đồng đã tập trung cho ý kiến đối với 3 nội dung chuyên môn của Đề án, đó là: lộ trình đưa tiếng Anh thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học ở Việt Nam bao gồm ba giai đoạn (2025-2030, 2030-2040, 2040-2045); phạm vi triển khai của Đề án; giải pháp đảm bảo các điều kiện thực hiện Đề án, đặc biệt là xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên, huy động xã hội hóa cho đảm bảo cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ mới cho dạy-học.
Theo đó, cơ bản các ý kiến đồng tình với dự kiến lộ trình 3 giai đoạn. Giai đoạn 1 (2025-2030) - xây dựng nền tảng và chuẩn hóa: Bảo đảm nền tảng vững chắc để tiếng Anh được sử dụng thường xuyên và có hệ thống trong môi trường giáo dục, tạo nhu cầu giao tiếp và thói quen sử dụng tiếng Anh trong trường học.
Giai đoạn 2 (2030-2040) - mở rộng và tăng cường: Đẩy mạnh việc sử dụng tiếng Anh một cách thường xuyên hơn, mở rộng các hoạt động dạy học, giáo dục nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng, phong phú trong hệ thống giáo dục, tạo môi trường ổn định, vững chắc để sử dụng tiếng Anh trong trường học.
Giai đoạn 3 (2040-2045) - hoàn thiện và nâng cao: Tiếng Anh được sử dụng một cách tự nhiên, hình thành hệ sinh thái sử dụng tiếng Anh trong môi trường giáo dục, giao tiếp và quản trị nhà trường.
Đại diện Hội đồng Anh khẳng định vai trò quan trọng của việc chia ra các giai đoạn như trên và nhận định: Cách làm này cho phép chúng ta dừng lại, kiểm soát, đánh giá kết quả từng giai đoạn; từ đó, xem xét tính hiệu quả, những việc đã làm tốt, chưa tốt để có giải pháp sẵn sàng cho giai đoạn tiếp theo hiệu quả hơn.
Việc triển khai tiếng Anh trong cơ sở giáo dục mầm non để tạo tiền đề phát triển tư duy ngôn ngữ sớm và tạo điều kiện triển khai Đề án thành công đối với cấp học phổ thông cũng được quan tâm. Về vấn đề này, ông Hoàng Quốc Tuấn - Giám đốc Sở GD&ĐT Lạng Sơn cho rằng, yêu cầu “bắt buộc” nên cân nhắc. Ông Nguyễn Quý Thanh - Hiệu trưởng Trường Đại học Giáo dục (Đại học Quốc gia Hà Nội) thì đề cập đến giai đoạn tối ưu dạy ngôn ngữ thứ 2 và cho rằng thời điểm bắt đầu nên là khi ngôn ngữ mẹ đẻ đã tương đối định hình.
Về điều kiện triển khai, vấn đề được quan tâm nhất là đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học. Bà Nguyễn Kim Dung - Giám đốc Pháp chế và Đối ngoại, Trường Đại học Anh quốc Việt Nam đề xuất bổ sung quy định cho phép cơ sở giáo dục công lập được tuyển dụng giáo viên người nước ngoài; cho phép xếp lớp theo năng lực tiếng Anh; có quy định về việc xã hội hóa, tài trợ phần mềm dạy học tiếng Anh cho nhà trường; ban hành danh mục chứng chỉ dạy ngoại ngữ được chấp thuận tại Việt Nam.
Để thực hiện được mục tiêu Đề án, hầu hết các ý kiến đều khẳng định vai trò quan trọng của môi trường sử dụng tiếng Anh và nhấn mạnh trước hết cần phát triển môi trường sử dụng tiếng Anh ở trong nhà trường.
Thứ trưởng Thường trực Bộ GD&ĐT Phạm Ngọc Thưởng phát biểu tại phiên họp.
Phát biểu kết luận, Thứ trưởng Thường trực Phạm Ngọc Thưởng cho biết sẽ tiếp thu tối đa các ý kiến góp ý. Nhấn mạnh lại một số nội dung quan trọng, Thứ trưởng nhắc đến đột phá trong nhận thức, tư duy, thể chế và nguồn lực. Theo đó, trong bối cảnh hiện nay, với yêu cầu đào tạo công dân toàn cầu, ngoại ngữ nói chung, tiếng Anh nói riêng và kỹ năng số là những công cụ hết sức quan trọng. Việc đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai là không thể chậm trễ.
Về nguồn lực, theo tinh thần Nghị quyết số 71-NQ/TW, Nhà nước phải đóng vai trò trọng tâm, dẫn dắt; lấy đầu tư công làm động lực để dẫn dắt đầu tư tư. Đồng thời, huy động tối đa các nguồn lực xã hội hóa, nhưng cần tránh tình trạng chỉ trông chờ vào xã hội hóa cho toàn bộ đề án cấp quốc gia.
Thứ trưởng cũng cho biết, trong 8 giải pháp đặt ra trong dự thảo Đề án, trọng tâm đặt vào 2 yếu tố quan trọng nhất là thể chế và nguồn nhân lực, cụ thể là đội ngũ giáo viên. Về lộ trình thực hiện, nơi có điều kiện thuận lợi có thể thúc đẩy triển khai sớm hơn và phải đóng vai trò dẫn dắt, thúc đẩy. Nơi chưa có điều kiện thì thực hiện theo lộ trình với tiến độ phù hợp…
Hiếu Nguyễn. Ảnh: Vân Anh
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/gop-y-hoan-thien-de-an-dua-tieng-anh-thanh-ngon-ngu-thu-2-trong-truong-hoc-post749426.html