GS.TS Nguyễn Đăng Dung. (Ảnh: vnu.edu.vn)
Đa phần văn bản luật có “tuổi đời” ngắn, vì thường xuyên bị thay đổi
Xin Giáo sư chia sẻ quan niệm của ông về “điểm nghẽn” trong thể chế của nước ta được đề cập khá nhiều trong thời gian gần đây?
- Nói đến thể chế tạo nên các “điểm nghẽn”, kìm hãm sự phát triển của quốc gia tức là nói đến sự yếu kém của hệ thống pháp luật, còn được gọi là những hạn chế của hệ thống pháp luật.
Hệ thống pháp luật Việt Nam đồ sộ, những văn bản ở các cấp độ hiệu lực khác nhau do nhiều chủ thể ban hành. Thực trạng này tác động không nhỏ đến khả năng tìm kiếm, tiếp cận quy định của người dân, tổ chức, doanh nghiệp và kể cả các cơ quan nhà nước trong quá trình thực thi công vụ.
Bên cạnh sự đồ sộ, hệ thống pháp luật tồn tại tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật, bộ luật; giữa văn bản hướng dẫn luật này với văn bản hướng dẫn luật khác. Điển hình nhất là sự chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) trong các lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng, quy hoạch; nhà ở, kinh doanh bất động sản, môi trường, vệ sinh, an toàn thực phẩm… Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) có các báo cáo nhanh về sự chồng chéo trong các văn bản pháp luật thuộc lĩnh vực đầu tư, đất đai, xây dựng, môi trường, nhà ở, kinh doanh bất động sản, đấu thầu. Theo đó, “điểm mặt” 20 chồng chéo, xung đột đang tạo ra những rủi ro cho doanh nghiệp và nhà đầu tư, có khả năng phát sinh các nhũng nhiễu tiêu cực trong thực hiện dự án.
VBQPPL chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn dẫn đến tính ổn định thấp, với tần suất sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, thay thế cao. Đa phần VBQPPL có “tuổi đời” ngắn, vì thường xuyên bị thay đổi. Thực tiễn cho thấy, trung bình 10 năm, Quốc hội thực hiện rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế các luật, bộ luật, như: Luật Đất đai, Bộ luật Dân sự; có những luật thời gian ngắn hơn như Luật Doanh nghiệp, Luật Tổ chức chính quyền địa phương… Cá biệt, có những bộ luật phải tạm hoãn thi hành để thực hiện sửa đổi, bổ sung, khắc phục những sai sót.
Đó là những “điểm nghẽn” của hệ thống pháp luật Việt Nam. Những “điểm nghẽn” này tạo nên các “điểm nghẽn” đầu tiên của các thể chế. Những “điểm nghẽn” được hình thành ngay từ khi soạn thảo các VBQPPL. Muốn khắc phục những “điểm nghẽn” nêu trên có rất nhiều việc phải làm. Nhưng trước hết về việc soạn thảo VBQPPL cần có một số thay đổi về nhận thức như làm luật theo yêu cầu của quyền hành pháp; đưa cuộc sống vào pháp luật mà không phải đưa pháp luật vào cuộc sống; hệ thống pháp luật không chỉ dựa từ một loại nguồn văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước.
Làm luật phải từ dưới lên
Chúng ta vẫn nói đưa pháp luật vào cuộc sống. Nhưng ông lại cho rằng cần đưa cuộc sống vào pháp luật, lý do là gì, thưa ông?
- Luật xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn và mong muốn của con người là đưa cuộc sống vào luật, mà không phải là đưa pháp luật vào cuộc sống. Mục đích của việc làm luật phụ thuộc vào mục đích của Nhà nước được thành lập ra. Vì vậy, làm luật phải có mục đích bảo vệ quyền con người. Làm luật dưới góc chiếu của quyền con người thì phải xuất phát từ mong muốn của chính con người, từ dưới lên, nơi các con người đang sinh sống, chứ không phải từ trên xuống, nơi chỉ có các quan chức nhà nước thực hiện hành vi cai trị đối với con người. Cách làm luật dưới góc chiếu của việc quản lý nhà nước là phải xuất phát từ hoạt động quản lý, mong muốn của Nhà nước. Nhiều khi mong muốn của Nhà nước chưa chắc đã là mong muốn của người dân.
Phương pháp làm luật này là phương pháp giải quyết vấn đề từ thực tế: Lý thuyết lập pháp hướng dẫn cách tìm nguyên nhân và giải pháp cho những vấn đề đặt ra. Đây là cách soạn thảo luật thể hiện giác độ của nhân quyền nhất. Bởi vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, lý thuyết lập pháp cho rằng làm luật phải nhắm vào các vấn đề xã hội đang phát sinh. Vấn đề nào quan trọng cần được xử lý trước, vấn đề nào ít quan trọng hơn thì xử lý sau. Không nên làm luật theo ý muốn chủ quan, vì các nguồn lực của đất nước có thể bị tiêu tốn vào những việc chưa chắc đã cần thiết nhất. Ngoài ra, các vấn đề đã phát sinh sẽ không tự biến mất. Nếu không được xử lý đúng lúc, các chi phí để giải quyết chúng sẽ chỉ ngày càng tăng lên gấp bội.
Thứ hai, phương pháp luận để xử lý các vấn đề gồm bốn bước: Nhận biết vấn đề; Lý giải nguyên nhân gây ra vấn đề; Đề ra giải pháp để giải quyết vấn đề (nhắm vào việc loại bỏ các nguyên nhân gây ra vấn đề); Giám sát và đánh giá việc thực hiện.
Chỉ những vấn đề do hành vi “có vấn đề” của con người gây ra mới giải quyết được bằng cách ban hành pháp luật. Trước khi soạn thảo một văn bản pháp luật phải nhận biết những loại hành vi nào (cả của đối tượng điều chỉnh lẫn của quan chức thi hành) đã làm phát sinh vấn đề. Thiếu một công trình nghiên cứu khoa học và nghiêm túc thì sẽ không thể trả lời chính xác câu hỏi nêu trên.
Thứ ba, để điều chỉnh những hành vi “có vấn đề” phải lý giải được tại sao con người lại hành động như vậy. Ví dụ, phân tích về vấn đề ô nhiễm sông ngòi. Trước hết, muốn giải quyết ô nhiễm ở sông ngòi thì phải nhận biết hiện tượng của vấn đề. Tôm, cá, chết nổi lên hàng loạt, hay nước sông có mùi… là những hiện tượng. Vấn đề là cần phải nhận ra hiện tượng đó. Tuy nhiên, trong thực tế chúng ta vẫn thường rơi vào những trường hợp sau đây: Không nhận biết được vấn đề đang phát sinh; Nhận biết vấn đề quá chậm; Hiểu sai vấn đề.
Hệ thống pháp luật cần phải bổ sung các nguồn khác
Vậy tại sao hệ thống pháp luật không chỉ dựa từ một loại nguồn VBQPPL của các cơ quan nhà nước, thưa ông? Phải chăng chúng ta nên bổ sung các nguồn pháp luật khác?
- Trước đây, nền kinh tế tập trung theo kiểu kế hoạch của các nước xã hội chủ nghĩa, hệ thống pháp luật đều chỉ có một hình thức là VBQPPL của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Sau nhiều năm đổi mới, với việc tiến hành công cuộc cải cách pháp luật khác nhau, nhưng cách hiểu của người Việt Nam về hệ thống pháp luật cơ bản vẫn chỉ dừng lại ở các hình thức VBQPPL của các cơ quan nhà nước. Xã hội ngày càng phát triển, hoạt động của con người cần phải vượt ra khỏi lãnh thổ quốc gia, hành vi của họ chỉ được điều chỉnh bằng các quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước là không thể đủ. Nhiều điều, nhiều quy luật mà con người trong cuộc sống muôn hình của họ được nhận ra, được tuân thủ. Đó là những tập tục không cần có sự phê chuẩn hoặc phải chấp nhận của bất cứ quan chức hay tổ chức nào của các cơ quan nhà nước…
Vì vậy, nếu nhìn hệ thống pháp luật chỉ có một hình thức nguồn đơn giản cho có một loại hình thức VBQPPL của các cơ quan nhà nước là chưa đầy đủ. Do đó, hình thức nguồn của hệ thống pháp luật của quốc gia phải đa dạng các loại nguồn khác. Bởi hành vi hoạt động của con người rất đa dạng và phức tạp nên cho dù có cố gắng đến mấy đi chăng nữa, lập pháp của các quốc gia không thể đáp ứng điều chỉnh mọi hoạt động của người, hệ thống pháp luật của các quốc gia không thể chỉ dựa vào một nguồn là các VBQPPL của các cơ quan lập pháp.
Luật pháp của một nền dân chủ có thể có nhiều nguồn: hiến pháp thành văn, các bộ luật và quy định; các giáo huấn tôn giáo và sắc tộc; các thông lệ và truyền thống văn hóa. Dẫu có nguồn gốc gì đi nữa, luật pháp phải có những quy định bảo vệ các quyền và sự tự do của công dân: Được bảo vệ bình đẳng trước luật pháp, luật pháp không được áp dụng riêng cho bất cứ cá nhân hay nhóm người nào; Công dân không bị bắt giữ tùy tiện, nhà cửa không bị khám xét mà không có lý do chính đáng hoặc không bị tịch thu tài sản cá nhân; Công dân phạm tội phải được xét xử công khai và nhanh chóng, được đối diện và chất vấn những người cáo buộc. Nếu bị kết án, họ có thể không phải chịu những hình phạt dã man và hoặc bất thường; Công dân không bị ép buộc phải nhận tội. Nguyên tắc này bảo vệ cho công dân khỏi bị ép buộc, lạm dụng hoặc đánh đập và giảm đáng kể tình trạng cảnh sát sử dụng những biện pháp đó.
Thể chế được hiểu tổng thể các văn bản quy phạm của hệ thống pháp luật tạo nên. Thực thi pháp luật và hệ thống pháp luật có sự gắn bó mật thiết với nhau như 2 mặt của một đồng xu, nên sự hoàn thiện hệ thống pháp luật có ảnh hưởng quyết định đến thực thi pháp luật. Sở dĩ hệ thống pháp luật của Việt Nam những năm qua với hiệu lực thực thi kém là có rất nhiều nguyên nhân. Nhưng nguyên nhân quan trọng nhất của vấn đề là sự soạn thảo các dự thảo tách rời với hoạt động hành pháp của Chính phủ, với lý do cần có phân công, phân nhiệm giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp.
Cho dù Chính phủ và Quốc hội có cố gắng đến mấy thì cũng không đủ các quy phạm văn bản cung cấp cho các hoạt động vô cùng phong phú, phức tạp và đa dạng của cuộc sống. Bởi thế, trong hệ thống pháp luật cần phải bổ sung các nguồn khác như tập tục, thông lệ, án lệ, các quy phạm của pháp luật quốc tế… tức là một hệ thống gồm đa các đa dạng các nguồn, hệ thống pháp luật Việt Nam mới có khả năng đáp ứng các yêu cầu phát triển bền vững của kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Xin trân trọng cảm ơn GS!
Thục Quyên (thực hiện)