Cụ thể, thành phố xác định phân vùng môi trường Thủ đô Hà Nội thành 03 vùng để làm cơ sở cho triển khai các giải pháp về bảo vệ môi trường, cụ thể như sau:
Vùng bảo vệ nghiêm ngặt, gồm: Các khu dân cư tập trung của các quận, thành phố phía Bắc, thành phố phía Tây, đô thị loại II và đô thị loại III; các khu bảo tồn thiên nhiên (Vườn quốc gia Ba Vì, khu bảo vệ cảnh quan chùa Thầy, khu bảo vệ cảnh quan K9 - Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, khu bảo vệ cảnh quan Vật Lại, khu bảo vệ cảnh quan Hương Sơn); khu vực bảo vệ I của khu di sản Hoàng thành Thăng Long, di tích quốc gia cấp đặc biệt, di tích quốc gia, di tích cấp thành phố; nguồn nước mặt dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt.
Vùng hạn chế phát thải, bao gồm: vùng đệm Vườn quốc gia Ba Vì; khu vực bảo vệ II của của khu di sản Hoàng thành Thăng Long, di tích quốc gia cấp đặc biệt, di tích quốc gia, di tích cấp thành phố; khu dân cư tập trung của đô thị loại IV, loại V; hành lang bảo vệ nguồn nước mặt được dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt; vùng đất ngập nước quan trọng; khu vui chơi giải trí dưới nước.
Theo quyết định của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội; các khu vực có yếu tố nhạy cảm về môi trường dễ bị tổn thương trước tác động của ô nhiễm môi trường cần được bảo vệ.
Vùng bảo vệ khác: là các khu vực còn lại trên địa bàn thành phố.
Phương án bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học được thành phố xác định là bảo tồn, phát triển bền vững, chú trọng nâng cao chất lượng và sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học. Chuyển tiếp, thành lập mới các khu bảo tồn thiên nhiên, các vùng đất ngập nước quan trọng, các cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học. Phục hồi, bảo tồn và phát triển bền vững các hệ sinh thái tự nhiên được bảo vệ, nhất là các hệ sinh thái sông, hồ, ao; phát triển các không gian xanh, hành lang xanh, vành đai xanh, nêm xanh; đẩy mạnh trồng rừng và trồng cây phân tán, chú trọng phát triển diện tích cây xanh đô thị tại những khu vực thích hợp.
Kết hợp bảo tồn tại chỗ với bảo tồn chuyển chỗ và các hình thức bảo tồn khác; bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học đô thị và khu vực nông thôn, nhất là hệ sinh thái nông nghiệp. Tăng cường lưu giữ, bảo tồn và phát huy giá trị các nguồn gen quý, hiếm, giống cây trồng, vật nuôi đặc hữu, đặc sản có giá trị. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, chuyển đổi số trong bảo tồn đa dạng sinh học.
Quản lý, kiểm soát chặt chẽ các loài sinh vật ngoại lai xâm hại, hoạt động săn bắn, buôn bán, vận chuyển, tiêu thụ các loài hoang dã; ngăn chặn tình trạng phá hủy các hệ sinh thái tự nhiên, chuyển đổi mục đích sử dụng đất tại các khu vực có hệ sinh thái tự nhiên được bảo vệ. Triển khai đồng bộ chính sách chi trả dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên tại các khu bảo tồn, cơ sở bảo tồn và các vùng đất ngập nước quan trọng.
Đối với phương án quan trắc chất lượng môi trường, Hà Nội sẽ phát triển mạng lưới quan trắc trên cơ sở ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại bảo đảm đáp ứng yêu cầu quản lý toàn diện chất lượng môi trường. Thiết lập và vận hành hiệu quả, đồng bộ, thống nhất với mạng lưới quan trắc, cảnh báo môi trường quốc gia trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
Phát triển hạ tầng, trang thiết bị, mạng lưới quan trắc môi trường không khí, môi trường nước mặt, môi trường nước dưới đất, môi trường đất. Ưu tiên phát triển mạng lưới các trạm quan trắc tự động, liên tục đối với môi trường nước mặt, môi trường không khí.
Vị trí quan trắc, thông số quan trắc và tần suất quan trắc môi trường do Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội quyết định theo quy định của pháp luật, phù hợp với đặc điểm, điều kiện phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu bảo vệ môi trường trong từng giai đoạn trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
Phương án bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản trên địa bàn thành phố phải phù hợp với Quy hoạch thăm dò, khai thác, chế biến và sử dụng các loại khoáng sản được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, các quy hoạch ngành quốc gia và quy hoạch khác có liên quan.
Thực hiện kiểm kê, thống kê, lập kế hoạch thăm dò, đánh giá trữ lượng, cấp phép khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn tài nguyên khoáng sản, không làm ảnh hưởng đến môi trường và các hoạt động kinh tế xã hội; gia hạn thời gian khai thác đối với các mỏ còn trữ lượng, phù hợp với quy hoạch; thực hiện đóng cửa các mỏ khoáng sản đã hết thời hạn và trữ lượng khai thác; quy hoạch và mở rộng các mỏ khoáng sản, mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng theo quy định của pháp luật. Quản lý, kiểm soát nghiêm ngặt các hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản làm vật liệu xây dựng và cát lòng sông theo đúng quy định, đặc biệt trên các sông thuộc các địa bàn giáp ranh với các tỉnh khác.
Minh Thành