Hà Nội, một vòng quay đời người

Hà Nội, một vòng quay đời người
5 giờ trướcBài gốc
Mấy hôm trước, hai đứa cháu trai tự dưng ríu rít hỏi tôi: “Ông còn giữ mũ beret của ngày xưa, áo vest dạ của ngày xưa không ông, cho chúng cháu mượn!”. Hỏi kỹ mới biết, chúng nó muốn mặc trang phục kiểu “ông bà anh” để đi chụp ảnh trên phố đi bộ được phục dựng như một phim trường hoài cổ.
Đứng lục lại tủ quần áo cũ mà bao nhiêu ký ức ùa về. Những ngày mưa phùn giăng giăng, bên Bờ Hồ, nhóm thanh niên Hà thành mặc Âu phục đi du xuân, những thiếu nữ bận áo dài, quàng khăn voan. Liễu rủ lơ thơ, mùi hương trầm từ đền Ngọc Sơn thơm vấn vít, những lời chào “dạ, thưa” nhỏ nhẹ như tiếng sóng nước gợn mặt hồ. Ừ, đã sắp đủ một vòng quay của đời người rồi đấy nhỉ…
Ông ngoại và mẹ tôi bên bờ hồ Hoàn Kiếm - Tết Tân Mão, 1951
Áo dài Hàng Phố
Người Hà Nội có văn hóa mặc rất đặc trưng. Họ mặc đẹp, nhưng đó là cái đẹp của sự nền nã, kín đáo. Nét văn hóa đặc trưng này luôn được gìn giữ ngay cả giai đoạn thiếu thốn nhất, những năm bao cấp khó khăn hay trước cơn lốc của thời mở cửa. Mỗi thời kỳ, người Hà Nội lại có những trang phục phù hợp, nhưng tất cả đều toát lên sự thanh lịch.
Soi chiếu nét thanh lịch đó vào người phụ nữ Hà thành đầu thế kỷ trước, ta thấy được dấu ấn đầu tiên là chị em khéo mặc, khéo họa, không chỉ vì mình mà còn vì những người xung quanh. Trên là khuôn mặt với một chút phấn, phơn phớt má hồng, một lớp son mờ, dưới là áo quần gọn gàng, phẳng phiu, tề chỉnh. Chỉ thế mà tỏa ra được nét đài các sang trọng, không lòe loẹt, đẹp mà không lố lăng.
Những năm 50, quanh phố Hàng Bạc nơi gia đình tôi sinh sống, phụ nữ trong các gia đình trí thức, tư sản cứ bước ra đường là mặc áo dài. Thậm chí ở những gia đình buôn bán, thường xuyên phải giao tiếp, thì người phụ nữ cả khi ở nhà cũng mặc áo dài. Đó thường là áo dài vạt, nếu xẻ tà, cũng được xẻ một cách khéo léo kín đáo, màu sắc sử dụng thường nhã nhặn, chất vải mềm mại. Riêng những ngày lễ, Tết, chị em lại diện những chiếc áo riêng, chất liệu sang trọng hơn và màu sắc tươi tắn hơn một chút.
Cách ăn mặc của người Hà Nội không bao giờ vượt ra khỏi cốt cách điềm đạm kín đáo của họ(bà ngoại tôi ngoài cùng, bên trái, hàng đứng - 1950)
Những ngày cận Tết, dọc theo các con phố với những mái phố lô xô, những căn gác hẹp với hàng hiên nhỏ xinh, chồng xếp bên nhau vừa thân thiết, vừa bí ẩn... người ta dễ bắt gặp những thiếu nữ trẻ trung, bận áo dài gấm hay lụa màu hoàng yến, màu mỡ gà hay xanh lục thủy... cùng quần màu trắng. Phụ nữ trên 30 tuổi mặc áo dài len, áo dài nhung màu đỏ rượu vang, màu vỏ quýt hay hồng tím phối với quần lụa đen.
Trong những bước phát triển từ tà áo dài truyền thống, thuở ấy “mốt” nhất là dòng áo dài tân thời Lemur. Ông chủ hiệu may Lemur Nguyễn Cát Tường quan niệm quần áo “như tấm gương phản chiếu trình độ trí thức”, “có vẻ mỹ thuật lịch sự”, “nhưng dù thế nào, nó cũng phải có cái tính cách riêng của nước nhà”... Tuy thế, áo Lemur cũng bị chê là “lai căng”.
Trong khi những mẫu áo dài của ông Lê Phổ, thì sửa bớt những nét lai căng, đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn, dung hợp hài hòa.
Ông bà ngoại tôi - Tết Canh Dần 1950
Những năm ấy, để có một bộ quần áo mặc Tết, bà tôi và mẹ tôi đã tìm đến những làng dệt lụa, dệt lĩnh đặt trước từ tháng 8 Âm lịch. Lấy được vải rồi, cũng phải đem đến các tiệm may cũng phải trước Tết vài tháng.
Bởi để làm ra được một chiếc áo dài, người thợ may phải vô cùng tỉ mỉ ở mọi công đoạn. Từ lấy số đo, đánh dấu, cắt vải, tạo ra dáng áo,… cho đến khi chiếc áo dài được khâu tay sơ lược để thành hình cho khách đến mặc thử, rồi hoàn chỉnh và đơm khuy, thêu hoa...
Và thế là đủ để cậu bé con là tôi ngày ấy đứng ngẩn người trước hiên nhà đầy xác pháo, ngắm các mẹ, các chị mặc áo dài, vận quần lụa, chân đi hài thêu, son phấn nhã nhặn, ngồi xe tay ngược xuôi chầm chậm dọc con phố. Trong mưa xuân dịu nhẹ, họ xuống xe, mở túi thêu để lấy tiền trả phu xe, từng cử chỉ đều nhẹ nhàng thanh lịch, pha một chút đài các...
Nam thanh nữ tú
Mùa xuân những năm ấy, hình như rét ngọt hơn. Tôi theo bà, theo mẹ đi ra Bờ Hồ, ghé đền Ngọc Sơn, đi vào Hàng Ngang, Hàng Đào, rồi xuống Hàng Đường... Phố cổ là nơi mua sắm sầm uất ngày Tết. Hàng tơ lụa với những nhân viên bán hàng người Âu, đội mũ phớt, nhanh nhẹn lấy những xúc vải, xúc lụa ra đo, rồi xé rất thành thạo.
Hiệu bánh nổi tiếng Đông Hưng Viên, khách mua đứng chật, mùi thơm tỏa ra ngào ngạt. Hàng Đồng thì sáng loáng những lư hương, hạc đồng, bộ tam sự, bộ ngũ sự, với các kiểu dáng, tha hồ mà chọn...
Các bà các mẹ ra phố là để sắm Tết, còn lũ trẻ thì ra phố là để ngắm người. Hồi ấy tuy còn nhỏ, nhưng tôi thích nhìn những quý ông vận Âu phục mùa đông, com-plê, cà-vạt, diện giày dôn hay giày mỏ vịt (de canard) và giày hai màu lẫn lộn (deux couleurs), đội mũ phớt hoặc mũ cát.
Lúc này vẫn có những người đàn ông đứng tuổi chọn bận nam phục, áo the đen, hoặc màu lam, bên trong là áo dài trắng, đi giày Chi Long, hoặc giày Gia Định, đầu đội chiếc khăn xếp đen phủ the sang trọng... Vì có mưa xuân, đôi người tay còn cầm theo chiếc ô lục soạn nữa.
Ông ngoại và các cậu tôi, chỉ Tết đến mới diện veston, vì tiền công may khá đắt. Bộ Âu phục thời kỳ này thường được may đứng dáng, rộng rãi với một hàng khuy sang trọng. Ve áo của veston thường khá rộng và có hình chữ V sâu. Khoảng những năm 50 tới đầu thập niên 90, nổi danh đất kinh kỳ là nhà may Tiến Thành, ở số nhà 46 Lê Thái Tổ. Ông ngoại tôi bảo, may veston phải chọn các loại vải như len, flannel, tweed, vừa giúp giữ ấm vừa tạo cảm giác sang trọng. Họa tiết kẻ caro hoặc sọc nhỏ là thịnh hành nhất.
Sáng mùng 1 Tết, cả nhà không được phép ra ngoài nếu chưa có người đến xông đất. Mỗi năm, ông bà tôi đều xem tuổi và nhờ người đến xông nhà lấy may, nên dù cả nhà ai nấy đều mặc quần áo chỉnh tề cả rồi nhưng vẫn phải đợi. Ông ngoại vuốt ve nếp áo veston dạ màu nâu cho thật phẳng. Bố tôi và các cậu bận Âu phục tối màu, đứng chuyện trò bên chiếc bàn có bình hoa thủy tiên đã được gọt cầu kỳ để ra hoa đúng hạn. Những đóa hoa trắng mỏng manh khẽ run rẩy trong tiếng nói cười.
Mẹ tôi, bao giờ cũng vậy, trong mắt tôi là người phụ nữ đẹp nhất. Bà hay bận áo dài nhung màu sẫm cài khuy bạc, đeo kiềng bạc. Trong lúc sửa soạn trà mứt, hay loay hoay vuốt cánh cho những đóa lay-ơn, thược dược, chiếc khăn voan ở vai bà lại khẽ bay lên, bay lên... Tôi theo lũ trẻ con tót ra khoảng sân giếng trời, đốt một tép pháo rồi đứng từ xa nghe tiếng nổ râm ran, thích thú vô cùng. Mùi vải mới của quần áo, mùi khói pháo và hương trầm, quện với mùi đĩa hoa gói lá của bà ngoại đặt trên ban thờ… Đó là mùi Tết.
Nghẹn ngào ký ức
Người càng lớn tuổi, thì dường như ký ức thời trẻ hiện về càng rõ nét. Hôm trước, tôi theo mấy đứa cháu đi lên khu phố đi bộ ven hồ Trúc Bạch, thử tìm lại chút mùi Tết và màu Tết của những ngày xưa. Hai đứa cháu tôi diện lại bộ vest của ông chúng thời trẻ, tay cầm ô đen. Chúng vẫy tay rối rít gọi bạn bè, mấy cô gái nhỏ mặc áo dài lụa dáng suông kiểu cũ, cổ đeo kiềng bạc, tay cầm quạt xếp…
Trong phút chốc, tôi tưởng như mình đi ngược thời gian, trở về với thuở thiếu thời hoa mộng, khi mùa xuân Hà Nội có mái ngói lô xô, có tàu điện leng keng, có mưa đan xác pháo thật êm… Tưởng như chỉ là câu chuyện về quần về áo, về xu hướng thời trang tái sinh trở lại. Nhưng biết đâu, cũng là câu chuyện về vòng quay của đời người.
Hữu Lộc
Nguồn Tiền Phong : https://tienphong.vn/ha-noi-mot-vong-quay-doi-nguoi-post1706976.tpo