Trạm sạc - điểm nghẽn trong cả hệ sinh thái
Trong những năm gần đây, Hà Nội đã ghi nhận những bước tiến mạnh mẽ trong lộ trình chuyển đổi phương tiện giao thông từ sử dụng nhiên liệu hóa thạch sang năng lượng sạch. Theo Phó Giám đốc Sở Xây dựng Hà Nội Đào Việt Long, tính đến tháng 7/2025, thành phố đã đưa vào hoạt động 16 tuyến buýt điện với 248 xe, chiếm gần 13% tổng số xe buýt trợ giá. Bên cạnh đó, 47,4% xe taxi và 46,5% xe hợp đồng dưới 9 chỗ đã được thay thế bằng xe điện.
Không xử lý triệt để điểm nghẽn hạ tầng, nỗ lực chuyển đổi giao thông công cộng thuần điện của Hà Nội sẽ thiếu nền tảng bền vững. (Ảnh minh họa)
23 hãng taxi tại Hà Nội cam kết chuyển đổi 100% sang phương tiện điện vào năm 2030. Cùng với đó, dịch vụ xe đạp công cộng TNGo với hơn 1.100 xe và 118 trạm điểm, cũng góp phần thúc đẩy thói quen di chuyển thân thiện với môi trường.
Tuy nhiên, trong khi số lượng phương tiện điện tăng nhanh thì hạ tầng sạc điện lại chưa theo kịp tốc độ phát triển. Theo báo cáo của Sở Xây dựng Hà Nội, hiện mới chỉ có Công ty CP Phát triển Trạm sạc Toàn cầu V-Green cung cấp báo cáo đầy đủ về hệ thống trạm sạc, với khoảng 1.000 trạm, bao gồm cả công cộng và cá nhân. Trong số này, chỉ có 57 trạm công cộng công suất lớn (120-150 kW). Phần lớn còn lại là trạm cá nhân, trụ AC công suất thấp.
Đối với xe buýt điện, số lượng trụ sạc chỉ có 113 trụ/16 tuyến, chủ yếu được lắp đặt tại Depot của 5/11 đơn vị vận hành buýt. Điều băn khoăn là các trạm sạc hiện nay chưa thể dùng chung giữa các loại xe hoặc giữa các hãng khác nhau do chưa có chuẩn chung về đầu sạc, gây lãng phí lớn trong khai thác hạ tầng.
Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến hệ thống vận tải công cộng, mà còn trực tiếp tác động đến người tiêu dùng cá nhân - những người đã hoặc đang có ý định chuyển sang sử dụng ô tô điện, xe máy điện trong sinh hoạt hàng ngày. Khi nhu cầu tăng cao nhưng không thể sạc nhanh, sạc thuận tiện, việc chuyển đổi sẽ chững lại.
Ông Nguyễn Anh Dũng - Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Điện lực Hà Nội, nhận định: “Hiện nay, số lượng trạm sạc còn ít, nên chưa ảnh hưởng đến nguồn cung điện. Tuy nhiên, từ giai đoạn 2026-2030, khi nhu cầu tăng mạnh, thiếu quy hoạch trạm sạc sẽ gây áp lực cực lớn lên lưới điện nếu không có chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước”.
Vấn đề không chỉ nằm ở số lượng trạm sạc, mà còn ở cơ chế quản lý, giá dịch vụ, quy hoạch đất đai và thủ tục đầu tư. Việc xã hội hóa đầu tư gặp khó do thiếu khung pháp lý rõ ràng, trong khi các nhà đầu tư tư nhân e ngại vì chưa thấy được mô hình hoàn vốn hiệu quả, nhất là trong giai đoạn đầu chi phí đầu tư cao.
Thực tế, nhiều khu vực nội đô gặp khó trong bố trí quỹ đất xây dựng trạm sạc công cộng, hoặc thiếu bãi đỗ xe tích hợp hạ tầng điện. Các doanh nghiệp vận hành xe điện phản ánh, việc xin cấp phép xây dựng trạm sạc mất nhiều thời gian vì phải làm việc với nhiều sở ngành, mỗi nơi một yêu cầu, chưa có đầu mối chung phụ trách.
Trong khi đó, mạng lưới phân phối linh kiện, bảo hành, sửa chữa và đặc biệt là pin vẫn phụ thuộc phần lớn vào nhập khẩu. Điều này khiến chi phí duy trì, thay thế cao, làm tăng tổng chi phí sở hữu phương tiện xanh.
Quy hoạch hạ tầng và xã hội hóa đầu tư
Để giải quyết tận gốc bài toán hạ tầng, Phó Chủ tịch UBND TP. Hà Nội Nguyễn Mạnh Quyền đã giao Sở Xây dựng chủ trì rà soát tổng thể các tiêu chuẩn, quy chuẩn liên quan đến trạm sạc. Đồng thời, thành phố yêu cầu các doanh nghiệp có nhu cầu triển khai phải phối hợp cập nhật dữ liệu, loại bỏ các trạm không đủ điều kiện, hoàn thiện bản quy hoạch tổng thể.
Bốn vị trí đầu tiên tại khu vực đường Vành đai 1 đã được xác định có thể bố trí bãi đỗ xe kết hợp trạm sạc, gồm: Đoạn đất trống từ số nhà 621-768 Đê La Thành; Khu đất cạnh Đại sứ quán Nga - Kim Mã; Dải đất dọc phố Trần Khát Chân và Khu đất trước trụ sở Tổng Công ty Hàng hải Việt Nam - nút Xã Đàn. Đây là bước đi đầu tiên để hiện thực hóa Chỉ thị số 20/CT-TTg, yêu cầu loại bỏ hoàn toàn xe máy xăng trong khu vực Vành đai 1 từ ngày 1/7/2026.
Hà Nội đang đối diện với yêu cầu cấp thiết về quy hoạch và phát triển hạ tầng sạc nếu muốn hoàn thành mục tiêu đô thị không khói bụi. (Ảnh minh họa)
Theo dự thảo Nghị quyết về chính sách chuyển đổi sử dụng năng lượng sạch (thực hiện điểm b khoản 2 Điều 28 Luật Thủ đô), Hà Nội đã đề xuất nhiều chính sách phát triển và hỗ trợ hạ tầng năng lượng sạch. Cụ thể, về phát triển hệ thống trạm tiếp năng lượng sạch công cộng, thành phố yêu cầu đến hết năm 2026, tối thiểu 10% chỗ đỗ xe tại các công trình hiện hữu phải có trụ sạc. Đối với dự án mới, tỷ lệ này là 30%. Đồng thời, ưu tiên xây dựng trụ sạc trên vỉa hè và khuyến khích đầu tư trụ nạp hydrogen, nhiên liệu sạch khác.
Về hỗ trợ phát triển hệ thống trạm tiếp năng lượng sạch công cộng, ngân sách thành phố sẽ hỗ trợ 70% tiền lãi vay ngân hàng trong 5 năm đầu cho các dự án đầu tư hạ tầng trạm tiếp năng lượng sạch. Các dự án bến xe, bãi đỗ xe có tối thiểu 30% chỗ đỗ có trụ sạc sẽ được hỗ trợ 50% chi phí giải phóng mặt bằng và 100% tiền thuê đất trong 5 năm đầu. Thành phố cũng đảm bảo cung ứng đủ năng lượng, hỗ trợ miễn phí khảo sát, thiết kế đấu nối lưới điện và chi phí quảng bá.
Chi phí đầu tư cao đang là rào cản lớn nhất khiến doanh nghiệp và người dân e dè khi chuyển sang phương tiện giao thông sử dụng điện. Ông Nguyễn Thanh Nam, Tổng Giám đốc Transerco cho biết, nguồn vốn vay để đầu tư hơn 1.000 xe buýt điện đến 2030 của công ty vượt gấp 3 lần năng lực tài chính hiện tại. Trong khi đó, chưa có đơn giá định mức cụ thể cho xe buýt điện cỡ vừa và nhỏ, gây khó khăn trong đấu thầu và huy động vốn.
Để tháo gỡ, Hà Nội đang đẩy mạnh mô hình PPP - hợp tác công tư. Các nhà đầu tư được đề xuất ưu tiên giao đất tại các vị trí quy hoạch; miễn 100% tiền thuê đất đến hết 2033; hỗ trợ kết nối hạ tầng kỹ thuật và giao thông đồng bộ.
Ngoài ra, Hà Nội khuyến khích nghiên cứu mô hình thuê pin, đổi pin nhanh, bố trí trạm sạc tại bãi xe, trung tâm thương mại, đầu - cuối tuyến giao thông công cộng. Mô hình này giúp giảm thời gian sạc, tối ưu chi phí vận hành và tạo điều kiện linh hoạt hơn cho người dân, đặc biệt tại khu dân cư đông đúc.
Trạm sạc không còn là hạ tầng phụ trợ mà đang là nền tảng vận hành toàn bộ hệ sinh thái giao thông điện. Từ phương tiện cá nhân đến xe buýt, taxi, xe chở hàng, mỗi mắt xích đều phụ thuộc vào sự tồn tại và chất lượng của hạ tầng sạc. Việc xây dựng chuẩn chung đầu sạc, hệ thống quản lý dữ liệu tập trung, tích hợp phần mềm điều phối, thanh toán số… sẽ là xu thế tất yếu. Khi đó, người dân có thể tra cứu điểm sạc, đặt trước vị trí, thanh toán điện tử và kiểm soát lịch sử sạc mọi lúc mọi nơi.
Vũ Đậu