Hà Thanh - Trận công đồn độc nhất vô nhị - Kỳ 1: Từ câu chuyện tình cờ

Hà Thanh - Trận công đồn độc nhất vô nhị - Kỳ 1: Từ câu chuyện tình cờ
11 giờ trướcBài gốc
Sau chiến thắng Hà Thanh ngày 9/7/1948: Từ trái sang: Chiến binh người nước ngoài (không biết tên), Paul Startre (Áo), Tiểu đoàn trưởng Bùi Ngọc Hoàng (sau này là Thiếu tướng mang tên Vương Tuấn Kiệt), Chính trị viên Tiểu đoàn Lê Đình Lý, Kémel (Đức), Lin (Đức), Roland (Đan Mạch), Julien (Ý), Tiểu đoàn phó Nguyễn Chí Hùng (Nhật) cùng chiến lợi phẩm thu được ở đồn Hà Thanh - Ảnh chụp tại Huyện ủy Phú Vang
Bảy năm về trước, tôi được cụ Nguyễn Phước, nguyên Chính trị viên Đại đội 114, Tiểu đoàn 319, Trung đoàn 101 tặng 4 tập sách (photo, không xuất bản); trong đó, có cuốn “Chuyện cổ tích đánh Pháp”. Mãi đến mùa mưa năm ngoái, tôi mới đọc và sững sờ khi nhìn thấy tấm hình khác lạ với chú thích “Ảnh chụp sau chiến thắng Hà Thanh 9/7/1948 tại Huyện ủy Phú Vang”. Đọc kỹ mới biết, tấm hình này cũng như nội dung tư liệu in trong tập sách đều do BS. Hoàng Minh Cảnh cung cấp, cụ Nguyễn Phước chấp bút.
Tôi về Lương Y tìm nhà cụ Nguyễn Phước nhưng “biệt vô âm tín”, bèn nhờ anh Trương Diên Thống, Phó Tổng biên tập Báo Huế ngày nay cung cấp địa chỉ người còn lại, vì năm 2001, BS. Hoàng Minh Cảnh có làm việc với Nhà báo Diên Thống và ghi lại địa chỉ liên lạc. Cụ viết bằng bút mực nên không xác định được 31 hay 39 Phan Đình Phùng - Huế. Tôi cố tìm cả hai nơi với hy vọng chụp lại bức ảnh gốc; đồng thời xin phép người thân trích dẫn tài liệu từ bài viết mà BS. Hoàng Minh Cảnh - Nguyễn Phước viết chung về trận Hà Thanh, nhưng không tìm được vì các cụ, nếu còn sống nay đã xấp xỉ trăm tuổi hoặc hơn.
Sở dĩ có được bức ảnh này, như cụ Phước kể lại, do sợ bị thất lạc, hư hỏng nên cụ Cảnh mang về nhà nhờ người chị cất giữ. Sau ngày nước nhà thống nhất, cụ Cảnh mới nhận lại. Lúc ấy, bức ảnh đã ố vàng, hư hỏng nên cụ Cảnh đem nhờ chụp lại, phóng to và tặng cụ Nguyễn Phước một tấm. Chính tấm hình này cụ Nguyễn Phước đem in trong tập sách tặng cho tôi.
Trận Hà Thanh diễn ra vào chiều 9/7/1948. Trong trận đánh này, ông Hoàng Minh Cảnh là y tá cứu thương của Tiểu đoàn 319. Vì là lính cứu thương nên ông Cảnh luôn đi sau Tiểu đoàn trưởng Bùi Ngọc Hoàng - người trực tiếp chỉ huy đánh đồn Hà Thanh năm ấy.
Tuy nhiên, tại trang 72 cuốn “Lịch sử đấu tranh, xây dựng của Đảng bộ và Nhân dân huyện Phú Vang (1930 - 2015)” lại ghi như sau: “Tháng 7/1948, Huyện ủy chủ trương phối hợp với Tiểu đoàn 18, Trung đoàn 101 Thừa Thiên Huế tiến công tiêu diệt đồn Hà Thanh do tên Nguyễn Văn Giảng, một tên Việt gian khét tiếng gian ác đội lốt linh mục chỉ huy”.
Ông Nguyễn Phước (bên trái) và tác giả
Nội dung vừa trích dẫn ở trên có 2 chi tiết cần nói rõ:
Thứ nhất, tại thời điểm đó (7/1948), Trung đoàn 101 không có Tiểu đoàn 18 mà chỉ có Tiểu đoàn 319 (vì cuối năm 1947, Trung đoàn Trần Cao Vân mang phiên hiệu mới Trung đoàn 101). Do vậy, Tiểu đoàn 18 do ông Dũng Oánh làm Tiểu đoàn trưởng của Trung đoàn Trần Cao Vân trước đây chính là tiền thân của Tiểu đoàn 319, lúc này do ông Bùi Ngọc Hoàng (sau này Thiếu tướng Vương Tuấn Kiệt) làm Tiểu đoàn trưởng, ông Lê Đình Lý làm Chính trị viên và ông Nguyễn Chí Hùng làm Tiểu đoàn phó.
Về vị tiểu đoàn phó này có chi tiết đặc biệt. Ông nguyên là một sĩ quan quân đội Nhật (rất tiếc không biết tên thật), sau khi Nhật đầu hàng Đồng Minh đã tự nguyện theo Việt Minh và trở thành người Việt Nam mới. Vì là người em kết nghĩa của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nên ông mang họ và tên: Nguyễn Chí Hùng!
Thứ hai, về Nguyễn Văn Giảng, đội lốt linh mục. Cả ba cuốn sách đã nêu đều ghi như vậy, nhưng căn cứ vào ghi chép của BS. Hoàng Minh Cảnh lại khác. Ông khẳng định: “Sau khi kiểm điểm rút kinh nghiệm trận đánh, Huyện ủy Phú Vang cho biết qua nguồn tin của địch do ta khai thác được, trong công vụ lệnh của Camille Doret gửi cho tên đồn trưởng có một số từ ta dùng không chính xác, gọi tên Giảng là Cha không đúng, nó chỉ mới thầy dòng!” - tác giả xin in đậm.
Cha là đấng bề trên, là Linh mục.
Vậy ai là Quản xứ Hà Thanh thời điểm đó?
Trong Lược sử Giáo xứ Hà Thanh, Tổng Giáo phận Huế cho biết, Hà Thanh trước năm 1945 là một trong những giáo họ của Giáo xứ Hà Úc, mãi đến năm 1946 mới nâng lên thành Giáo xứ gồm các giáo họ: Xuân Thiện, Tân Sa và Khánh Mỹ.
Giáo xứ Hà Thanh do Cha PX Trần Thanh Giản làm Quản xứ.
Người Huế mình khi phát âm rất khó phân biệt giữa Giảng và Giản. Trong khi họ và chữ lót hoàn toàn không đúng. Và, nếu không có ghi chép của BS. Hoàng Minh Cảnh (được Thiếu tướng Vương Tuấn Kiệt xác nhận) về cuộc họp rút kinh nghiệm tại Huyện ủy Phú Vang sau trận đánh đồn Hà Thanh thì khó mà có điều kiện bạch hóa về danh tính và chức sắc giữa Cha và thầy dòng.
Lịch sử cuộc chiến cho thấy, sau khi tái chiếm Phú Vang (2/1947), quân Pháp đã biến nhà thờ Hà Thanh thành nơi đồn trú của đội quân đánh thuê người Việt - Partisan và giao cho Trung úy Nguyễn Văn Giảng chỉ huy. Trợ lý đắc lực cho Giảng là Đội Mây. Bọn chúng biến giáo đường thành địa ngục làm ô danh Chúa!
Thêm nữa, trong cuốn lịch sử “Lực lượng vũ trang nhân dân huyện Phú Vang - 30 năm chiến đấu và trưởng thành (1945 - 1975)” xuất bản năm 2004 tại trang 53 - 54 có ghi: "40 cán bộ, chiến sĩ ta cải trang làm lính khố đỏ trang bị súng đạn đầy đủ đi trên 3 chiếc thuyền chèo tay từ Huế về Hà Thanh, trong thuyền có áp giải một cán bộ Việt Minh (do đồng chí Dương Mộng Tự đóng vai xã đội trưởng bị bắt). Bằng một giấy chứng nhận chức vụ do Bộ Tư lệnh Pháp ở Bắc miền Trung Việt Nam cấp (được điệp viên của ta chuẩn bị và do Thành ủy Huế chuyển ra)”.
Những chữ in đậm ở trên vừa phi lý, lại không đúng. Ai cũng biết lính khố đỏ xuất hiện trước tháng 8/1945. Tháng 2/1947, sau khi tái chiếm, quân Pháp tuyển mộ người Việt đi lính làm tay sai cho chúng - bọn Partisan! Đến năm 1948, cả Thừa Thiên Huế có tất cả 80 đồn Bảo an binh và Hà Thanh là một trong số đó. Còn thuyền chèo tay từ Huế về là không đúng. Thử hình dung từ Huế chèo về Hà Thanh - Vinh Thanh bây giờ mất bao lâu? Chính chi tiết này vô tình phủ nhận công lao đóng góp của Nhân dân Phú Vang (sự thật là có 4 thuyền xuất phát từ Viễn Trình vượt đầm Thủy Tú); còn “giấy chứng nhận” được điệp viên ta chuẩn bị là không đúng vì lúc đó quân Pháp không dùng tên gọi này mà là chính “Công vụ lệnh”. Chính tờ Công vụ lệnh ấy do ông Đại, Thư ký của Tiểu đoàn 319 soạn thảo ngay tại Huyện ủy Phú Vang.
(Còn nữa)
PHẠM HỮU THU
Nguồn Thừa Thiên Huế : https://huengaynay.vn/chinh-tri-xa-hoi/ha-thanh-tran-cong-don-doc-nhat-vo-nhi-ky-1-tu-cau-chuyen-tinh-co-151648.html