Tăng trưởng tín dụng cả năm dự báo vượt 30%
Báo cáo tài chính bán niên 2025 của Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank - mã VPB) cho thấy tính đến 30/6/2025, dư nợ cho vay khách hàng của ngân hàng đã tăng trưởng 18,8% so với đầu năm, vượt xa mức tăng hơn 10% cùng kỳ năm ngoái.
Động lực chính thúc đẩy tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ tiếp tục đến từ phân khúc bán buôn. Tại ngân hàng mẹ, danh mục cho vay bán buôn (bao gồm cả doanh nghiệp SME và khách hàng doanh nghiệp lớn) đạt gần 452 nghìn tỷ, tăng 28% so với đầu năm trong khi danh mục bán lẻ ước khoảng 298 nghìn tỷ với mức tăng trưởng tương đối chậm hơn, khoảng 13%.
Tỷ trọng cho vay bán lẻ tại ngân hàng mẹ đến hết quý II/2025 đã giảm 3 điểm % so với đầu năm, xuống khoảng 40% danh mục. Trong khi đó tại FECredit, dư nợ tín dụng đi ngang trong nửa đầu năm dù ban lãnh đạo cho biết danh mục “cho vay lõi” tăng trưởng +5,5% so với đầu năm.
BSC Research nhận định trong ngắn hạn, phân khúc cho vay bán lẻ, đặc biệt là cho vay khách hàng đại chúng, chưa thể kỳ vọng một sự đột phá trước mắt.
Nếu xét theo nhóm ngành, bất động sản (BĐS) vẫn là lĩnh vực cho vay cốt lõi của VPBank.
Cho vay kinh doanh BĐS đã ghi nhận tỷ trọng trong danh mục bán buôn giảm từ mức đỉnh 47,4% tại cuối năm 2024 xuống 41,2% tại thời điểm kết thúc quý II/2025, một phần do đã tăng trưởng quá mạnh trong năm ngoái. BSC Research ước tính trong nửa đầu năm nay, lĩnh vực kinh doanh BĐS đóng góp khoảng 19% vào mức tăng của dư nợ cho vay bán buôn của VPBank , so với con số 66% trong cả năm 2024.
Trong khi đó, mặc dù tỷ trọng cho vay mua nhà trong danh mục bán lẻ tiếp tục phục hồi từ mức đáy hồi quý II/2024, ước đạt 36,5% tại quý II/2025 và đóng góp 43% vào mức tăng của dư nợ cho vay bán lẻ trong nửa đầu năm, thì mức độ đóng góp của danh mục bán lẻ vào tăng trưởng dư nợ toàn ngân hàng vẫn còn hạn chế.
BĐS vẫn là lĩnh vực cho vay cốt lõi của VPBank. Ảnh: BSC Research
Năm nay, VPBank trình ĐHĐCĐ kế hoạch tăng trưởng tín dụng hợp nhất 25%. BSC Research dự báo con số tăng trưởng tín dụng thực tế cả năm có thể lên tới 30,5%.
Áp lực NIM trong ngắn hạn
Về huy động vốn, trong 7 tháng đầu năm 2025, với sự kết nối từ cổ đông chiến lược SMBC, VPBank đã huy động thành công hơn 1,9 tỷ USD vốn vay nước ngoài. Huy động tiền gửi và giấy tờ có giá riêng lẻ tăng đột phá 27,5% so với đầu năm và gấp hơn 4 lần trung bình ngành, tạo nền tảng vững chắc cho sự mở rộng tín dụng.
Tuy vậy, theo các chuyên gia, việc phần tiền vay từ các tổ chức tài chính và tín dụng quốc tế không được tính vào mẫu số trong công thức LDR vẫn khiến ngân hàng đối diện với "bài toán khó" về LDR trong giai đoạn tiếp theo.
Bên cạnh đó, mặc dù có lợi thế về bộ đệm vốn chủ với CAR hợp nhất cuối quý II/2025 đạt 13,8%, tỷ trọng huy động giấy tờ có giá của VPBank hiện đang duy trì thấp hơn đáng kể so với các ngân hàng cạnh tranh. Theo BSC Research, điều này phản ánh sự khác biệt trong chính sách huy động giữa các bên, và việc không thường xuyên nắm giữ FI-bond (trái phiếu của các TCTD) trong danh mục huy động được dự báo sẽ gây áp lực lên LDR của VPBank trong các quý tới khi ngân hàng có mục tiêu tăng trưởng tín dụng rất cao.
Để đáp ứng mục tiêu tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ của năm nay, các chuyên gia dự báo ngân hàng sẽ tiếp tục đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng huy động thị trường 1 trong các quý tới.
Tại thời điểm cuối quý II/2025, tỷ lệ CASA tại ngân hàng mẹ VPBank đã cải thiện khoảng 1,5 điểm % so với quý liền trước đạt 16%. Trong khi đó, việc CASA gia tăng chủ yếu từ phân khúc định chế tài chính và khách hàng doanh nghiệp trong khi tỷ lệ CASA bán lẻ có xu hướng giảm được đánh giá là không bền so với các ngân hàng duy trì được tỷ trọng CASA bán lẻ tương đối ổn định hơn, do tiền gửi bán lẻ nói chung thường có độ bám dính cao hơn (ít nhạy cảm hơn với biến động lãi suất) so với tiền gửi bán buôn.
Theo đó, các chuyên gia dự báo trong nửa cuối năm, ngân hàng khó duy trì chi phí vốn ở mức hiện tại do có thể sẽ tiếp tục sử dụng chiến lược cạnh tranh về giá, vốn đã gắn liền với VPBank từ trước đến nay. Phù hợp với nhận định này, ban lãnh đạo ngân hàng cũng dự kiến chi phí vốn có thể tăng 20-30 điểm cơ bản trong 6 tháng cuối năm.
Trong khi chi phí vốn dự báo nhích lên, lợi suất tài sản cũng được kỳ vọng khó có thể tăng mạnh trong bối cảnh danh mục bán lẻ còn phục hồi chậm. Việc tái cấu trúc lại danh mục cho vay kể từ cuộc khủng hoảng BĐS cuối 2022 đã làm tỷ trọng cho vay tín chấp (vốn thường là sản phẩm có NIM cao nhất) của VPBank liên tục giảm từ mức đỉnh 12% xuống hiện chỉ 9%, kéo theo đó là lợi suất tài sản bình quân thấp hơn so với giai đoạn hoàng kim trước đó. Những yếu tố này nhìn chung được dự báo có khả năng tiếp tục gây áp lực lên NIM ngân hàng trong ngắn hạn.
Ảnh: BSC Research
Trong thời gian tới, BSC dự báo chiến lược của VPBank sẽ tiếp tục xoay quanh việc hy sinh một phần NIM - vốn đã đang cao nhất ngành - để đổi lấy chất lượng tài sản và chất lượng lợi nhuận của các khoản giải ngân mới.
Đến hết quý II/2025, chất lượng cho vay khách hàng tại VPBank nhìn chung đang được cải thiện rõ rệt ở phía ngân hàng mẹ và duy trì ổn định ở phía FECredit. Ngân hàng mẹ ghi nhận cả tỷ lệ nợ xấu giảm xuống 2,8% và nợ nhóm 2 giảm xuống 2,7%, tương đương mức giảm lần lượt 0,5 điểm % và 1,3 điểm % so với quý I trong khi dư nợ tái cơ cấu theo Thông tư 02 chỉ còn rất thấp. Tỷ lệ nợ xấu tại FECredit ước tính ở mức 19%, dù còn cao hơn so với các đối thủ cạnh tranh như HDSaison và MCredit nhưng đã giảm mạnh so với mức >25% ghi nhận cuối 2022.
Ảnh: BSC Research
Kỳ vọng lợi nhuận đột biến từ các công ty con
Với việc NIM dự báo giảm nhẹ trong 2025, động lực quan trọng hỗ trợ tăng trưởng lợi nhuận của VPBank trong năm nay có thể sẽ đến từ thu hồi nợ xấu và cắt giảm chi phí dự phòng từ mức nền cao.
BSC Research dự báo tỷ lệ thu hồi (thu nhập từ thu hồi nợ / trung bình quy mô nợ xấu được xử lý) trong giai đoạn 2025-2026 của ngân hàng sẽ trở lại mức trung bình lịch sử ở khoảng 21-22%, tuy nhiên đánh giá đây hoàn toàn có thể là mảng tạo nên đột biến về tăng trưởng lợi nhuận.
Về phía bộ đệm dự phòng, mặc dù LLCR mỏng (tương đối so với các ngân hàng đối thủ) có thể gây lo ngại với nhiều nhà đầu tư, nhóm phân tích lưu ý rằng đây là chính sách của VPBank từ trước đến nay dựa trên TSBĐ chủ yếu là BĐS được định giá cao, tốc độ tăng trưởng tín dụng và tốc độ xóa nợ đều tương đối nhanh, và khẩu vị rủi ro, cụ thể là ở hoạt động cho vay tín chấp, có phần cao hơn các ngân hàng khác.
VPBank là ngân hàng có truyền thống duy trì bộ đệm dự phòng mỏng tương đối, một phần dựa trên TSBĐ chủ yếu là BĐS được định giá cao. Ảnh: BSC Research
Một điểm sáng khác được kỳ vọng sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng lợi nhuận của VPBank trong năm nay là sự khởi sắc của các công ty con. Trong báo cáo mới đây, BSC Research nhấn mạnh rằng nhà đầu tư không nên quá bất ngờ nếu các công ty con ghi nhận tăng trưởng lợi nhuận đột biến trong 2025, nhất là với VPBankS - vừa xin điều chỉnh kế hoạch - khi đang cân nhắc thực hiện IPO vào cuối năm.
Lợi nhuận của VPBankS và FECredit được kỳ vọng tăng mạnh trong năm nay. Ảnh: BSC Research
Trong nửa đầu năm 2025, cả FECredit và VPBankS đều ghi nhận lợi nhuận trước thuế cải thiện tích cực, đạt lần lượt 267 tỷ (so với mức lỗ 707 tỷ cùng kỳ) và 900 tỷ (+80% svck). Năm nay, FECredit đặt mục tiêu lợi nhuận 1.100 tỷ trong khi VPBankS đặt mục tiêu lợi nhuận 2.000 tỷ.
Về triển vọng ngân hàng hợp nhất, trên cơ sở dự phóng tăng trưởng tín dụng và huy động cả năm 2025 lần lượt đạt 30,5% và 31,2% cùng xu hướng cải thiện chất lượng tài sản, BSC Research dự báo thu nhập lãi thuần của VPBank có thể gần 57.792 tỷ đồng và lợi nhuận trước thuế 24.771 tỷ đồng, lần lượt tăng 18% và 24% so với mức thực hiện của 2024.
Diên Vỹ