Thực trạng đáng lo ngại
Thời gian gần đây, tại các xã Sốp Cộp, Yên Châu, Mai Sơn, Bắc Yên…, tình trạng người dân phát vén rừng để làm nương diễn ra phức tạp. Phát vén rừng là hành vi chặt phá, đốt rừng trái phép nhằm lấy đất canh tác nông nghiệp. Dù thường diễn ra âm thầm, rải rác, nhưng nếu không được kiểm soát kịp thời, hậu quả để lại là sự suy giảm nghiêm trọng về diện tích và chất lượng rừng.
Một khoảng rừng bản Khá Men, xã Dồm Cang, huyện Sốp Cộp ( huyện cũ khi chưa hợp nhất) bị phá để làm nương. Ảnh Báo Sơn La
Theo thống kê, diện tích đất lâm nghiệp có rừng của tỉnh hiện đạt hơn 671.596 ha, trong đó hơn 591.687 ha rừng tự nhiên và 79.909 ha rừng trồng. Mục tiêu đến năm 2025, Sơn La duy trì tỷ lệ che phủ rừng ổn định ở mức 50%. Tuy nhiên, chỉ trong 6 tháng đầu năm 2025, toàn tỉnh đã kiểm tra, phát hiện 116 vụ vi phạm liên quan đến phá rừng, gây thiệt hại gần 20 ha rừng. Con số này cho thấy sức ép quản lý đang gia tăng.
Ở xã biên giới Sốp Cộp, nơi có tới 6.693 ha rừng đặc dụng, hơn 31.700 ha rừng phòng hộ và gần 31.200 ha rừng sản xuất, tình trạng phát nương vẫn diễn ra phức tạp. Lực lượng kiểm lâm đã xử lý 25 vụ vi phạm với 94 đối tượng, thiệt hại gần 70.000 m² rừng phòng hộ và sản xuất, xử phạt 421 triệu đồng. Đây là minh chứng rõ ràng cho tính chất gay gắt của vấn đề.
- Diện tích đất lâm nghiệp có rừng: 671.596 ha. Trong đó: 591.687 ha rừng tự nhiên, 79.909 ha rừng trồng
- Mục tiêu đến 2025: duy trì tỷ lệ che phủ rừng 50%
- 6 tháng đầu năm 2025: 116 vụ vi phạm, thiệt hại 19,84 ha rừng
- Ở xã biên giới Sốp Cộp, lực lượng kiểm lâm đã xử lý 25 vụ vi phạm với 94 đối tượng, thiệt hại gần 70.000 m² rừng phòng hộ và sản xuất, xử phạt 421 triệu đồng.
Nguyên nhân từ sức ép sinh kế
Áp lực mưu sinh chính là nguyên nhân gốc rễ dẫn đến phát vén rừng làm nương. Nhiều hộ đồng bào dân tộc thiểu số thiếu đất sản xuất, vốn liếng và kiến thức canh tác bền vững. Trong hoàn cảnh khó khăn, phát rừng làm nương trở thành cách nhanh nhất để có lương thực và thu nhập.
Thực tế, giá cà phê, sắn tăng cao trong những năm gần đây càng thúc đẩy việc chuyển đổi đất rừng sang trồng cây nông nghiệp. Cùng với đó, tập quán canh tác quảng canh, luân canh nương rẫy đã ăn sâu trong đời sống nhiều thế hệ. Việc thay đổi thói quen này đòi hỏi thời gian, sự hỗ trợ đồng bộ về đất đai, kỹ thuật và thị trường.
Một số chính quyền cơ sở chưa thực sự vào cuộc quyết liệt, coi công tác bảo vệ rừng là trách nhiệm riêng của kiểm lâm. Thêm vào đó, địa hình phức tạp, rừng phân tán ở vùng sâu, giáp ranh càng làm cho việc tuần tra, kiểm soát trở nên khó khăn.
Ông Nguyễn Huy Tuấn, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Sơn La, chỉ rõ: “Khó khăn lớn nhất là các đối tượng thường chặt phá nhỏ lẻ, tỉa dần, không phá ồ ạt, nên rất khó phát hiện và xử lý kịp thời”.
Quyết liệt các biện pháp ngăn chặn
Trước thực trạng này, tỉnh Sơn La đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ trên ba trụ cột chính: hoàn thiện thể chế, tăng cường lực lượng và ứng dụng công nghệ gắn với sinh kế bền vững.
Nhân dân trồng cây trám đen để bổ sung, phục hồi rừng.
Mỗi năm, lực lượng kiểm lâm phối hợp với chính quyền, công an, quân đội tổ chức trên 1.000 lượt tuần tra, giúp giảm 10% số vụ vi phạm lâm luật trong năm 2024 so với năm 2023. Riêng 6 tháng đầu năm 2025, các cơ quan chức năng đã xử phạt 151 vụ vi phạm hành chính và khởi tố 3 vụ án hình sự liên quan đến hủy hoại rừng.
Ở các điểm nóng, tỉnh thiết lập đường dây nóng, tổ phản ứng nhanh và các đoàn kiểm tra liên ngành. Nhiều thiết bị công nghệ hiện đại được đưa vào sử dụng: 21 thiết bị bay không người lái (UAV), hệ thống cảnh báo mất rừng từ vệ tinh, phần mềm quản lý tài nguyên rừng FRMS. Công nghệ trở thành “tai mắt” quan trọng giúp lực lượng chức năng kiểm soát diện tích rừng rộng lớn.
Sinh kế bền vững - lời giải căn cơ
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, không thể bảo vệ rừng bền vững nếu người dân chưa có sinh kế ổn định. Do đó, cùng với tăng cường quản lý, tỉnh Sơn La chú trọng các mô hình nông - lâm kết hợp, trồng cây dược liệu dưới tán rừng, gắn bảo tồn với tạo thu nhập.
“Khó khăn lớn nhất là các đối tượng thường chặt phá nhỏ lẻ, tỉa dần, không phá ồ ạt, nên rất khó phát hiện và xử lý kịp thời.”
- Ông Nguyễn Huy Tuấn, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm Sơn La chia sẻ,
Giao rừng và chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR) được xác định là giải pháp chiến lược. Đến nay, Sơn La đã giao gần 918.000 ha rừng và đất lâm nghiệp cho cộng đồng, hộ gia đình, tổ chức quản lý; trên 98% diện tích đã có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Năm 2024, Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng tỉnh chi hơn 201 tỉ đồng cho gần 40.000 chủ rừng, bình quân 5 triệu đồng/người/năm. Khoản thu này góp phần quan trọng giúp người dân yên tâm gắn bó với rừng.
Bản Mạt, Mường Lèo, Sốp Cộp là minh chứng điển hình. Với 12.000 ha rừng, bản có diện tích lớn nhất xã nhưng không xảy ra tình trạng phá rừng. Năm 2024, bản nhận gần 2,3 tỉ đồng từ DVMTR. Từ nguồn này, cộng đồng đầu tư xây dựng nhà sinh hoạt chung, mua thiết bị phòng cháy chữa cháy rừng, phát đường băng cản lửa và duy trì tuần tra thường xuyên. Bí thư Chi bộ Lường Văn Kim khẳng định: “Có sự đồng thuận của người dân, rừng sẽ được bảo vệ vững chắc”.
Bảo vệ rừng - trách nhiệm chung của toàn xã hội
Công tác quản lý rừng không thể chỉ giao cho kiểm lâm, mà cần sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị. Ban Chỉ đạo Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững cấp tỉnh thường xuyên chỉ đạo, giao nhiệm vụ cụ thể cho từng sở, ngành. Ở cấp xã, tổ công tác liên ngành được thành lập, phối hợp từ kiểm lâm, công an, quân đội, dân quân, chính quyền xã đến các chủ rừng.
Quan trọng hơn cả, người dân phải được đặt ở trung tâm. Khi họ thấy rõ quyền lợi và trách nhiệm, rừng mới thực sự được bảo vệ. Những mô hình thành công như bản Mạt cho thấy, cộng đồng là “chiến sĩ của rừng” khi có cơ chế, lợi ích và sự vận động phù hợp.
Cán bộ Hạt Kiểm lâm cùng nhân dân bản Háng Đồng, xã Háng Đồng, kiểm tra biến động rừng phòng hộ.
Hành trình bảo vệ “lá phổi xanh” của Sơn La
Sơn La vẫn đứng trước thách thức lớn về bảo vệ rừng trong bối cảnh sức ép sinh kế còn nặng nề. Tình trạng phát vén rừng làm nương tuy chưa trở thành “điểm nóng” kéo dài, nhưng vẫn tiềm ẩn nguy cơ cao. Để giữ vững “lá phổi xanh”, cần sự đồng bộ từ:Tăng cường nguồn lực kiểm lâm, ứng dụng công nghệ quản lý rừng hiện đại; Phát triển các mô hình kinh tế thay thế, giúp người dân thoát nghèo bền vững; Xây dựng cộng đồng dân cư trở thành lực lượng nòng cốt trong bảo vệ rừng.
Bảo vệ rừng không chỉ là trách nhiệm của ngành lâm nghiệp, mà là nghĩa vụ của chính quyền các cấp, của cả xã hội. Đây chính là nền tảng để Sơn La phát triển bền vững, vừa đảm bảo sinh kế cho người dân, vừa giữ gìn môi trường sinh thái, góp phần ứng phó biến đổi khí hậu.
Sơn La chú trọng phát triển các mô hình nông - lâm kết hợp, trồng cây dược liệu dưới tán rừng. Giao rừng - Chi trả dịch vụ môi trường rừng (DVMTR)
- Đã giao gần 918.000 ha rừng và đất lâm nghiệp cho cộng đồng, hộ gia đình, tổ chức
- Trên 98% diện tích có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
- Năm 2024: chi trả 201 tỉ đồng cho 39.973 chủ rừng, bình quân 5 triệu đồng/người/năm
Bản Mạt (xã Mường Lèo, Sốp Cộp) là điển hình:
- Diện tích rừng: 12.000 ha
- Năm 2024 nhận 2,3 tỉ đồng từ DVMTR
- Toàn bộ 113 hộ, 500 nhân khẩu đều cam kết bảo vệ rừng
“Có sự đồng thuận của người dân, rừng sẽ được bảo vệ vững chắc.”
- Lường Văn Kim, Bí thư Chi bộ, Trưởng bản Mạt
Để giữ vững và phát triển rừng, Sơn La cần:
- Ứng dụng mạnh mẽ công nghệ trong giám sát rừng.
- Đầu tư mô hình sinh kế thay thế, nâng cao thu nhập cho người dân.
- Xây dựng cộng đồng trở thành “chiến sĩ của rừng”.
“Bảo vệ rừng không chỉ là trách nhiệm của ngành lâm nghiệp, mà còn là nghĩa vụ của toàn xã hội.”
Ngọc Anh