Công ty CP Điện gió Khe Sanh, Công ty CP Điện gió Hướng Linh 7, Công ty CP Điện gió Hướng Linh 8, Công ty CP Điện gió Phong Huy, Công ty CP Điện gió Phong Nguyên, Công ty CP Điện gió Liên Lập đã cùng ký vào công văn gửi Bộ Công thương, UBND tỉnh Quảng Trị, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Công TNHH MTV Vận hành hệ thống điện và thị trường điện quốc gia (NSMO), kiến nghị hạn chế cắt giảm công suất phát điện khả dụng của cụm các nhà máy điện gió Quảng Trị.
Các dự án điện gió bị cắt giảm công suất phát điện trong cụm này gồm Khe Sanh, Hướng Linh 7, Hướng Linh 8, Phong Huy, Phong Nguyên, Liên Lập. Đây là những dự án đã đi vào vận hành từ tháng 10/2021, với quy mô công suất vài chục MW, tổng vốn đầu tư trung bình khoảng 1.600-2.000 tỷ đồng mỗi dự án, đặt tại khu vực huyện Hướng Hóa (Quảng Trị) và một phần Quảng Ninh, Lệ Thủy (Quảng Bình cũ).
Theo phản ánh của nhóm chủ đầu tư, từ cuối tháng 9 đến hết tháng 10/2025, các nhà máy này bị cắt giảm công suất khả dụng trung bình từ 20 – 90%, có thời điểm lên tới 99%, khiến sản lượng phát điện sụt giảm nghiêm trọng. Riêng trong tháng 10, công suất phát bị giảm khoảng 50%, tương đương mức sụt giảm doanh thu cả năm ước tính 5%.
Nhà máy Điện gió Liên Lập trị giá khoảng 1.900 tỷ đồng là một trong số 16 dự án ở huyện Hướng Hóa được công nhận COD trước thời điểm chốt giá FIT. Ảnh: DNCC
Nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài trong các tháng 11 và 12 – vốn là giai đoạn có gió tốt nhất trong năm – doanh thu cả năm có thể giảm 10 – 20%, ảnh hưởng lớn tới khả năng trả nợ và duy trì hoạt động của doanh nghiệp.
Các nhà đầu tư cho biết, với thời gian thu hồi vốn dự kiến 12 – 15 năm, phần lớn dự án mới chỉ ở giai đoạn đầu của chu kỳ tài chính. Một số nhà máy đã phát sinh hư hỏng thiết bị, phải sửa chữa hoặc thay thế, làm tăng chi phí đầu tư. Thực tế, đã có dự án tại Quảng Trị phải chi tới hàng triệu USD để khắc phục sự cố tuabin gió.
Theo tính toán, các dự án điện gió hoạt động hiệu quả nhất cũng phải cần thêm 8 – 10 năm mới có thể trả hết nợ gốc và lãi ngân hàng. Thời gian còn lại để tạo lợi nhuận chỉ khoảng 2 – 3 năm cuối vòng đời dự án, trong khi chi phí bảo trì, thay thế thiết bị sẽ tăng dần theo tuổi thọ tuabin (trung bình khoảng 15 năm).
“Ngay cả trong điều kiện thuận lợi, nếu được mua điện 90 – 100% công suất, hiệu quả dự án cũng chỉ ở mức giới hạn. Khi bị cắt giảm sản lượng, khả năng hoàn vốn gần như không thể”, đại diện nhà đầu tư cho biết.
Với biên lợi nhuận định mức chỉ 5 – 10% doanh thu, mức sụt giảm 10 – 20% doanh thu do cắt giảm công suất có thể khiến doanh nghiệp lỗ, không đủ chi trả nợ vay và chi phí vận hành. Nếu tình trạng kéo dài, nguy cơ mất khả năng thanh toán và phá sản là hoàn toàn có thể xảy ra, các chủ đầu tư cảnh báo.
Trước tình hình trên, nhóm 6 chủ đầu tư đã đồng loạt kiến nghị Bộ Công thương, UBND tỉnh Quảng Trị, Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) và Trung tâm Điều độ Hệ thống điện quốc gia (NSMO) xem xét lại cơ chế điều độ đối với các nhà máy điện gió.
Cụ thể, nhà đầu tư đề xuất giới hạn mức cắt giảm công suất trong giai đoạn cao điểm gió (từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau) ở mức 2 – 5% sản lượng phát điện, thay vì 20 – 50% như hiện nay. Đồng thời, EVN và NSMO được kiến nghị công khai, minh bạch thông tin về thời gian và tỷ lệ cắt giảm đối với tất cả các loại hình nhà máy điện, bao gồm thủy điện, điện than, điện mặt trời và điện gió, nhằm bảo đảm công bằng giữa các thành phần kinh tế.
Các doanh nghiệp cũng đề nghị xây dựng kịch bản điều phối nguồn điện rõ ràng, thông báo sớm kế hoạch cắt giảm, giúp nhà máy chủ động hơn trong vận hành và giảm tổn thất kinh tế gián tiếp. Theo phản ánh, việc giảm công suất liên tục và không có thông báo trước đã gây ảnh hưởng lớn tới kế hoạch sản xuất, năng lực cạnh tranh cũng như đời sống người lao động.
Ngoài ra, khó khăn của các dự án điện gió không chỉ dừng ở doanh nghiệp. Phần lớn các dự án này được tài trợ vốn bởi các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước như BIDV, Agribank, VietinBank và Vietcombank. Khi doanh nghiệp không thể trả nợ, rủi ro tài chính sẽ lan sang hệ thống ngân hàng, gián tiếp ảnh hưởng tới ngân sách và niềm tin của nhà đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo.
Các nhà đầu tư cũng cho rằng, nếu tình trạng cắt giảm công suất tiếp tục diễn ra mà chưa có giải pháp khắc phục, cần phải đánh giá kỹ lưỡng trước khi cấp phép thêm các dự án điện gió mới. Việc mở rộng đầu tư trong khi các nhà máy hiện hữu chưa thể vận hành hết công suất sẽ gây lãng phí nguồn lực xã hội và gia tăng rủi ro cho cả nhà đầu tư hiện tại lẫn tương lai.
Hiện EVN và Trung tâm Điều độ hệ thống điện quốc gia chưa đưa ra phản hồi chính thức về các kiến nghị trên. Nguyên nhân chung của việc cắt giảm công suất tại nhiều khu vực thời gian qua được cho là do quá tải lưới truyền tải và mất cân đối cung – cầu cục bộ.
Nhóm nhà đầu tư kỳ vọng các cơ quan chức năng sớm có giải pháp điều phối phù hợp để bảo đảm hiệu quả đầu tư, an toàn tài chính cho doanh nghiệp, cũng như ổn định niềm tin thị trường trong giai đoạn phát triển tiếp theo của ngành năng lượng tái tạo.
Nếu tình trạng này tiếp tục kéo dài, rất cần được đánh giá kỹ lưỡng trước khi cho phép triển khai thêm các dự án mới trong tương lai. Bởi, việc mở rộng đầu tư trong khi các nhà máy hiện hữu vẫn bị cắt giảm công suất không chỉ gây lãng phí nguồn lực xã hội, mà còn tăng rủi ro cho cả nhà đầu tư hiện tại và nhà đầu tư mới, chủ đầu tư 6 dự án điện gió tại Quảng Trị cảnh báo.
Mới nhất, Sở Công thương Quảng Trị thông báo chuẩn bị mời quan tâm đầu tư 3 dự án điện gió với tổng công suất 285MW, vốn đầu tư gần 12.000 tỷ đồng. Cụ thể gồm: điện gió Tân Hợp 1 tại xã Khe Sanh, có công suất thiết kế 50 MW, tổng vốn gần 2.100 tỷ đồng; điện gió Phong Liệu mở rộng công suất 35MW, 1.400 tỷ đồng, điện gió Thái Dương 1 công suất 200MW, trị giá 8.440 tỷ đồng.
Thái Bình