Hành trình đau khổ của các thủy thủ

Hành trình đau khổ của các thủy thủ
3 giờ trướcBài gốc
Các thủy thủ phải chịu nhiều nguy hiểm trong thời gian dài khi lênh đênh trên biển. Ảnh minh họa: S.D.
Sau khi những nỗ lực hòa bình nhằm tuyển mộ nhân lực cho hạm đội thất bại, Hải quân buộc phải sử dụng đến biện pháp mà một thư ký Bộ gọi là “mạnh tay hơn”. Các đội vũ trang được phái đi để ép buộc những người làm nghề biển phải nhập ngũ, nói thẳng ra, là bắt cóc họ.
Những đội quân này lang thang khắp các thành phố và thị trấn, săn lùng bất kỳ ai có dấu hiệu của một thủy thủ: áo sơ mi caro quen thuộc, quần ống rộng, mũ tròn; hoặc các ngón tay lấm đầy dầu hắc ín, thứ được sử dụng để làm kín và tăng độ bền cho gần như mọi vật dụng trên tàu. (Những người làm nghề đi biển thường được gọi là tar - hắc ín). Chính quyền địa phương nhận được lệnh phải “bắt giữ tất cả các thủy thủ, người dẫn đò, chèo thuyền, ngư dân và lái thuyền chở hàng đang tản mát khắp nơi.”
Một thủy thủ sau này kể lại rằng khi anh ta đang đi bộ trên đường phố London, một người lạ gõ vai và hỏi “Anh đi tàu nào?”. Dù anh ta phủ nhận mình là thủy thủ, nhưng các ngón tay lấm hắc ín đã tố cáo anh. Người lạ lập tức thổi còi và một đội vũ trang xuất hiện ngay sau đó.
“Tôi bị bắt giữ bởi 6 hoặc 8 tên côn đồ mà tôi nhanh chóng nhận ra là một toán đi bắt lính,” chàng thủy thủ viết, “Chúng lôi tôi vội vã qua nhiều con phố, giữa những tiếng nguyền rủa cay độc của người qua đường dành cho chúng và những lời cảm thông dành cho tôi”.
Các toán bắt lính còn dong thuyền ra xa, lùng sục đường chân trời để tìm kiếm các tàu buôn sắp cập bến, những mục tiêu béo bở nhất. Thông thường, những người đàn ông bị bắt giữ là thủy thủ vừa trở về sau những chuyến hải trình dài, nhiều năm xa cách gia đình.
Với rủi ro của một chuyến đi mới trong thời chiến, họ có thể không bao giờ gặp lại người thân nữa. Số phận trớ trêu đã xảy đến với John Campbell, một sĩ quan trẻ trên tàu Centurion, người từng bị bắt lính khi đang phục vụ trên một tàu buôn.
Một toán người ập vào tàu của anh, và khi nhìn thấy họ lôi đi một người đàn ông lớn tuổi đang khóc, Campbell đã bước lên và tự nguyện thay thế. Tên cầm đầu toán bắt lính nhận xét: “Ta thà có một chàng trai hăng hái còn hơn một lão già rền rĩ”.
Anson được cho là ấn tượng sâu sắc trước lòng dũng cảm của Campbell đến mức phong anh làm chuẩn úy. Tuy nhiên, phần lớn các thủy thủ đều tìm mọi cách để trốn tránh “bọn cướp xác” này, họ ẩn náu trong các hầm tàu chật chội, khai báo mình đã chết trong sổ đăng ký hoặc rời khỏi tàu buôn trước khi đến cảng chính.
Theo một báo cáo từ nhật báo năm 1755, khi toán bắt lính bao vây một nhà thờ ở London để truy bắt một thủy thủ trốn bên trong, anh ta đã thoát được nhờ cải trang thành “quý bà lớn tuổi với áo choàng dài, mũ trùm đầu và mũ rộng vành”.
Những thủy thủ bị bắt cóc được vận chuyển trong hầm của các tàu nhỏ được gọi là tàu tiếp tế, giống như những nhà tù nổi, với song sắt chốt chặt trên cửa hầm và lính đánh bộ canh gác với súng hỏa mai và lưỡi lê.
“Chúng tôi ở đó cả ngày và đêm hôm sau, chen chúc nhau vì không có chỗ để ngồi hoặc chỗ đứng riêng,” một thủy thủ nhớ lại, “Thật sự, chúng tôi rơi vào cảnh đáng thương: người thì say sóng, kẻ thì nôn mửa, có người hút thuốc lá, trong khi nhiều người khác quá choáng váng bởi mùi hôi thối đến mức ngất xỉu vì thiếu không khí”.
Bi kịch đổ xuống các gia đình khi họ nhận tin con trai, anh trai, chồng hoặc cha mình bị bắt lính. Nhiều người vội vã chạy đến nơi các tàu tiếp tế chuẩn bị khởi hành, hy vọng có thể thoáng nhìn thấy người thân. Samuel Pepys, trong nhật ký, đã mô tả cảnh tượng những người vợ của các thủy thủ bị bắt lính tập trung trên một cầu tàu gần Tháp London [1]: “Trong đời tôi, chưa bao giờ chứng kiến sự bộc lộ cảm xúc nào tự nhiên hơn cảnh tượng này, tiếng than khóc của những phụ nữ đau khổ.
Họ chạy đến từng nhóm đàn ông bị áp giải, từng người một, tìm kiếm chồng mình và khóc nức nở khi từng con tàu rời bến. Họ nghĩ rằng chồng họ có thể đang ở trên một trong những con tàu đó và dõi theo dưới ánh trăng đến khi nó khuất dạng. Cảnh tượng ấy khiến tim tôi đau nhói”.
[1]Tháp London (Tower of London) là một pháo đài lịch sử nằm bên bờ bắc sông Thames ở trung tâm London. Được xây dựng vào cuối thế kỷ 11 dưới triều vua William I (William the Conqueror), tháp này từng được sử dụng như cung điện hoàng gia, nhà tù, kho chứa vũ khí và nơi lưu giữ bảo vật hoàng gia.
David Grann/ Huy Hoàng Books & NXB Văn học
Nguồn Znews : https://znews.vn/hanh-trinh-dau-kho-cua-cac-thuy-thu-post1604669.html