Những chính sách ấy không chỉ giúp cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người dân, mà còn góp phần giữ gìn khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố niềm tin của đồng bào các dân tộc với Đảng, Nhà nước ta. Việt Nam có 54 dân tộc anh em, trong đó hơn 14 triệu đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống chủ yếu ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, nơi điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, cơ sở hạ tầng hạn chế, trình độ dân trí còn thấp. Chính vì vậy, việc thu hẹp khoảng cách phát triển giữa miền núi và đồng bằng luôn được đặt ở vị trí trọng tâm trong các chiến lược phát triển quốc gia.
Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu khởi công điểm Trường nội trú liên cấp Tiểu học và Trung học cơ sở xã Yên Khương, tỉnh Thanh Hóa. Ảnh: Dương Giang-TTXVN
Nhận thức rõ điều đó, Đảng và Nhà nước đã triển khai nhiều chương trình, dự án mang tính dài hạn, đồng bộ, nhằm bảo đảm an sinh, phát triển kinh tế, văn hóa và con người, coi đó là chìa khóa cho phát triển bền vững. Một trong những chương trình mang dấu ấn sâu đậm là “Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi” hay còn gọi là Chương trình 135 vốn được khởi động từ năm 1998 và từ đó đến nay đã hỗ trợ cho đồng bào ở các vùng sâu, vùng xa hàng chục nghìn công trình hạ tầng thiết yếu như đường giao thông, trường học, trạm y tế, công trình nước sinh hoạt, thủy lợi nhỏ... Hàng triệu hộ nghèo được vay vốn, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất, nhiều xã vùng cao đã thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn.
Cùng với đó, còn là chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021–2030. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có một chương trình tổng thể, dài hạn, toàn diện và có quy mô ngân sách lớn (hơn 137.000 tỷ đồng giai đoạn I) dành riêng cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Chương trình tập trung vào ba nhóm mục tiêu lớn gồm phát triển kinh tế, giảm nghèo bền vững; phát triển nguồn nhân lực và văn hóa; củng cố hệ thống chính trị cơ sở, đảm bảo quốc phòng – an ninh.
Đặc biệt, thực hiện Kết luận số 81-TB/TW ngày 18/7/2025 của Bộ Chính trị về chủ trương đầu tư xây dựng trường học cho các xã biên giới, Chính phủ đã bàn hành Nghị quyết số 298/NQ-CP ngày 26/9/2025 về Kế hoạch hành động của Chính phủ thực hiện Kết luận số 81-TB/TW. Theo đó, cả nước sẽ đầu tư 248 trường phổ thông nội trú liên cấp Tiểu học, Trung học cơ sở tại 248 xã biên giới đất liền và ngay trong năm 2025 khởi công xây dựng 100 trường, trong đó lễ khởi công đồng loạt 72 trường phổ thông nội trú liên cấp tại các xã biên giới đất liền tại 14 tỉnh đã được tổ chức ngày 9/11 với sự có mặt tại các điểm cầu của Thủ tướng Phạm Minh Chính, các Phó Thủ tướng Chính phủ, một số thành viên Chính phủ, cùng lãnh đạo các bộ, ngành Trung ương; lãnh đạo các địa phương; cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, học sinh và nhân dân địa phương. Đây là sự kiện mang ý nghĩa chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước đối với đồng bào, chiến sĩ, đặc biệt là học sinh vùng biên giới.
Ngoài ra, còn phải kể tới chính sách tín dụng ưu đãi giúp hàng triệu hộ đồng bào vay vốn phát triển sản xuất; chính sách y tế bảo đảm 100% người dân tộc thiểu số được cấp thẻ bảo hiểm y tế… Có thể nói, mỗi chính sách, mỗi công trình, mỗi chương trình đều là minh chứng cho tinh thần nhân ái và trách nhiệm của Đảng, Nhà nước đối với những vùng đất còn nhiều khó khăn, nhưng giàu truyền thống, bản sắc và tiềm năng.
Thực hiện chương trình cứng hóa, cống thoát nước tại xã Toàn Sơn, huyện Đà Bắc (Hòa Bình) được triển khai từ Chương trình mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội đồng bào thiểu số và miền núi. Ảnh: Thanh Hải - TTXVN
Nhờ các chính sách đúng đắn và nhất quán, diện mạo vùng miền núi, dân tộc thiểu số đã thay đổi rõ rệt; đời sống văn hóa – tinh thần của đồng bào ngày càng phong phú. Tính nhân văn sâu sắc của chính sách dân tộc còn thể hiện ở chỗ, mọi chủ trương, chương trình đều hướng đến nâng cao đời sống con người, tôn trọng bản sắc văn hóa và quyền làm chủ của cộng đồng. Đặc biệt, trong thời kỳ chuyển đổi số, Nhà nước đã triển khai nhiều dự án đưa công nghệ thông tin, internet và dịch vụ công trực tuyến đến vùng cao. Việc phủ sóng viễn thông, đào tạo kỹ năng số cho thanh niên dân tộc thiểu số không chỉ mở ra cơ hội tiếp cận tri thức mới, mà còn tạo động lực phát triển kinh tế số nông thôn – một hướng đi đầy triển vọng.
Tuy vậy, dù Đảng, Nhà nước luôn chú trọng và thúc đẩy mạnh mẽ các chủ trương, chương trình hỗ trợ đồng bào các dân tộc thiểu số, miền núi với nhiều kết quả khả quan, đáng khích lệ song rõ ràng một số khu vực vẫn đối mặt không ít khó khăn; hạ tầng chưa đồng bộ, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, tỷ lệ tái nghèo cao, tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai đến những vùng sâu, vùng xa vẫn rất đáng lo ngại. Và để chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số miền núi đạt hiệu quả hơn nữa, có lẽ cũng cần phải từng bước thay đổi tư duy phát triển từ “hỗ trợ, cho không” sang “trao cơ hội, tạo sinh kế”; từ chính sách “bao cấp” sang “trao quyền” cho cộng đồng. Mỗi chính sách nhân văn cần gắn với thực tiễn địa phương, dựa vào nội lực người dân và đó mới là nền tảng cho phát triển bền vững.
Nói tóm lại, trong bối cảnh hội nhập sâu rộng và phát triển kinh tế tri thức, việc tiếp tục ưu tiên đầu tư cho vùng dân tộc thiểu số, miền núi vừa là yêu cầu phát triển bền vững, vừa là biểu hiện cụ thể của công bằng xã hội. Mỗi chủ trương, chính sách nhân văn được triển khai hiệu quả không chỉ mang lại đời sống ấm no cho người dân, mà còn góp phần củng cố niềm tin của đồng bào vào con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn.
Hoài Nam