"CỤ TỔ" 3,2 TRIỆU NĂM TUỔI
Tượng điêu khắc Lucy được trưng bày tại Bảo tàng Khoa học Tự nhiên Houston, Mỹ. Ảnh: Getty Images
50 năm trước, vào tối ngày 24/11/1974, tại một khu trại khảo cổ ở Hadar, Đông Bắc Ethiopia, nhà nhân chủng học mới 30 tuổi người Mỹ Donald Johanson và trợ lý Tom Gray đang uống bia lạnh quanh đống lửa trong khi một con dê đang nướng trên than hồng. Họ đang ăn mừng, cùng với một số ít đồng nghiệp: ngay sáng hôm đó, họ đã tìm thấy những phần xương hóa thạch của một hominid (họ Người) chưa từng được khoa học mô tả. Cả nhóm hát và nhảy theo nhạc của The Beatles. Bài hát “Lucy in the Sky With Diamonds” vang lên và có người đã đề xuất: "Tại sao chúng ta không gọi cô ấy là Lucy?".
Cái tên được chấp nhận, và Lucy đã trở thành hóa thạch nổi tiếng nhất trong lịch sử. Phát hiện về Lucy đã dẫn đến hàng ngàn câu hỏi. Hai câu hỏi chính là: Cô ấy thuộc loài nào? Và liệu loài người có đang nhìn thấy họ hàng linh trưởng gần nhất của mình không?
Một trong những lý do khiến Lucy trở nên đặc biệt là vì cô là một bộ xương dễ nhận biết, mặc dù không hoàn chỉnh. Một lý do khác là bộ xương này đủ giống với bộ xương của chúng ta để các nhà nghiên cứu nghĩ rằng giống loài của Lucy có thể là họ hàng gần, và thậm chí có thể là tổ tiên của con người hiện đại.
Nhưng Lucy chỉ là một trong số nhiều hóa thạch người được phát hiện kể từ khi nhà bác học Charles Darwin phỏng đoán vào năm 1871 rằng con người có nguồn gốc từ châu Phi. Tại sao hóa thạch này lại đóng vai trò lớn trong trí tưởng tượng của công chúng, và trong quá trình tìm hiểu nguồn gốc của con người? Câu trả lời nằm ở giá trị của Lucy như một biểu tượng cho lịch sử tiến hóa sâu sắc của loài người ở châu Phi, cũng như giá trị nội tại của cô ấy như một nguồn bằng chứng về quá trình tiến hóa của loài người.
Thời đại của Lucy
Hãy quay lại thời đại của Lucy. Gần 3,2 triệu năm trước, một tổ tiên loài người nhỏ bé với sự pha trộn giữa các đặc điểm giống người và giống vượn đã sống ở vùng Sừng Châu Phi, trên một vùng đất cỏ rải rác cây cối và cây bụi. Lucy là thành viên của một cộng đồng linh trưởng phong phú hơn và nhiều loài động vật có vú ấn tượng hơn nhiều so với những loài sống ở khu vực đó ngày nay. Không có lý do gì để nghĩ rằng Lucy đặc biệt theo bất kỳ cách nào trong cuộc đời tương đối ngắn ngủi của cô ấy. Điều khiến cô bé trở nên đặc biệt là những gì đã xảy ra với cô sau khi Lucy chết.
Khi một con vật chết trên một vùng đất trống, cách xa bờ hồ hoặc kênh suối, các mô mềm - cơ và dây chằng - sẽ bị các loài ăn xác thối lớn và nhỏ tiêu thụ. Các xương sẽ tách vỡ, và trong một thời gian ngắn đáng kinh ngạc, chỉ còn lại các mảnh xương. Không còn gì để có thể nhận ra một hóa thạch “nguyên khối”. Nếu con vật chết đủ gần một hồ nước hoặc suối, thì khả năng rất nhỏ là một hoặc nhiều xương và răng của nó sẽ được bao phủ bởi một lớp trầm tích.
Hình ảnh minh họa nhà cổ nhân chủng học Donald Johanson ở Hadar, Ethiopia khi phát hiện ra Lucy vào năm 1974. Ảnh: sciencenews
Không chỉ xương sẽ được bảo vệ về mặt vật lý bởi trầm tích, khỏi bị hư hại thêm, mà trong những môi trường thích hợp, chúng còn được làm cứng bởi các hóa chất trong trầm tích. Quá trình được gọi là hóa thạch này sẽ dần dần chuyển đổi xương và răng thành đá hình xương và răng.
Nhưng ngay cả khi tất cả những điều này xảy ra, chúng ta vẫn còn một chặng đường dài trước khi hài cốt của cá thể đó trở thành một hóa thạch nổi tiếng. Để điều đó xảy ra, đá trầm tích mà xương được chôn vùi cần phải được phơi bày do xói mòn; một nhóm các nhà khoa học và thợ săn hóa thạch được đào tạo phải tìm thấy những bộ xương hóa thạch đó trước khi chúng bị phân hủy đến mức không thể nhận ra, và nhóm phải có nguồn lực rộng lớn cần thiết để phục hồi nhiều mảnh và mảnh vỡ của mẫu vật đã bị các yếu tố phân tán trên khắp cảnh quan. Tỷ lệ xương và răng của một cá thể được bảo quản, hóa thạch, phơi bày, phát hiện và phục hồi cực kỳ thấp khiến bộ xương Lucy trở thành một khám phá đặc biệt. Số lượng những bộ xương như vậy trong giai đoạn đầu của hồ sơ hóa thạch mà con người tìm ra có thể chỉ được đếm trên đầu ngón tay.
Một lý do khác khiến Lucy trở nên đặc biệt là trong số các vùng khác nhau của bộ xương được bảo tồn, có những phần xương đáng kể cho thấy chiều dài của các chi: xương cánh tay và xương quay ở chi trên, và xương đùi, xương chày ở chi dưới. Một trong những điểm khác biệt lớn nhất giữa con người hiện đại và họ hàng gần nhất còn sống của chúng ta - tinh tinh và bonobo, là chiều dài tương đối của các chi. Trong khi con người hiện đại có chân dài và tay ngắn, tinh tinh và bonobo có tay dài và chân ngắn. Tinh tinh và bonobo cũng có cẳng tay tương đối dài.
Hóa thạch Lucy - bộ xương của một Australopithecus afarensis (một loài thuộc phân tông Người) đã tuyệt chủng, từng sinh sống tại Đông Phi vào khoảng 3,9–2,9 triệu năm trước. Ảnh: Getty Images
Cả bốn xương chi dài chính của Lucy đều bị hư hỏng hoặc mất một phần thân, vì vậy chiều dài tối đa của chúng phải được ước tính. Mặc dù vậy, vẫn còn đủ xương được bảo tồn để làm rõ rằng tỷ lệ chi của Lucy - và do đó là tỷ lệ chi của Australopithecus afarensis, loài mà cô thuộc về - gần với tinh tinh và bonobo hơn là với con người hiện đại.
Điều này không có nghĩa là Lucy di chuyển giống như tinh tinh hoặc bonobo: các hóa thạch khác của loài A. afarensis (Australopithecus afarensis – loài của Lucy, một loài đã tuyệt chủng của Australopithecine (phân tông Người), sống cách đây khoảng 3,9–2,9 triệu năm ở kỷ Pliocen tại Đông Phi), cung cấp bằng chứng thuyết phục rằng loài này đi thẳng bằng hai chân.
Nhưng Lucy đã thực hành một hình thức di chuyển bằng hai chân khác biệt đáng kể so với hình thức đi bằng hai chân mà con người hiện đại và tổ tiên trực tiếp của chúng ta sử dụng. Trong khi chúng ta, những Homo sapiens (Người tinh khôn), sải những bước dài khi đi bộ, thì A. afarensis có dáng đi nặng nề hơn vì hai chân của nó cách xa nhau hơn.
Xem tiếp Kỳ cuối: Một loài Người chưa từng được biết
Thu Hằng/Báo Tin tức (Theo Scientific-american, El Pais)