Sau Cách mạng Tháng Tám, hạ tầng điện Việt Nam chỉ có công suất vài chục MW, thiết bị cũ kỹ, lưới điện manh mún. Tháng 10-1954, khi tiếp quản Thủ đô, miền Bắc mới có 31,5MW công suất điện, sản lượng khoảng 53 triệu kWh mỗi năm; số hộ gia đình được dùng điện hiếm hoi, có thể đếm trên đầu ngón tay. Ở miền Nam, năm 1954, tổng công suất đạt khoảng 53,84MW; lưới truyền tải chỉ có hai cấp điện áp 230kV và 66kV, vận hành độc lập theo từng vùng. Những con số ấy phản ánh bức tranh về một hệ thống điện vận hành rời rạc, lưới truyền tải nhỏ lẻ. Điện khi ấy vẫn còn là thứ xa xỉ, chỉ dành cho số ít hộ gia đình tại đô thị.
Từ chỗ đầy khó khăn, ngành điện đã từng bước phát triển, trong đó truyền tải điện được xác định là lĩnh vực then chốt, là "mạch máu" kết nối mọi miền đất nước. Biểu tượng tiêu biểu nhất cho hành trình phát triển của ngành truyền tải điện chính là hệ thống đường dây 500kV Bắc-Nam. Tại sa bàn Hệ thống điện quốc gia, hệ thống đường dây truyền tải điện 500kV Bắc-Nam hiện lên như một mạch máu chủ đạo, kéo dài xuyên suốt đất nước, đi qua rừng núi, đô thị, đồng bằng, nối liền hàng nghìn ki-lô-mét lãnh thổ. Hiện nay, trục Bắc-Nam của đường dây 500kV đã có tới 3 mạch.
Sa bàn Hệ thống điện quốc gia tái hiện quy mô của hệ thống điện Việt Nam, nổi bật là đường dầy truyền tải điện.
Mạch 1 của đường dây 500kV dài 1.487km, từ tỉnh Hòa Bình trước đây (nay thuộc tỉnh Phú Thọ) đến TP Hồ Chí Minh, được đưa vào vận hành ngày 27-5-1994, đánh dấu bước ngoặt lịch sử, đưa Việt Nam trở thành một trong số ít quốc gia đang phát triển vận hành thành công hệ thống truyền tải siêu cao áp, lần đầu tiên kết nối toàn bộ hệ thống điện quốc gia theo trục xương sống duy nhất. Tiếp đó, mạch 2 dài 1.596km từ Hà Nội tới TP Hồ Chí Minh hoàn thành vào ngày 23-9-2005, tăng cường năng lực truyền tải và bảo đảm an toàn cung cấp điện cho cả nước. Đặc biệt, đường dây 500kV mạch 3 dài 1.698km, được triển khai thần tốc trong giai đoạn 2022-2024, với giai đoạn 1 và 2 của dự án từ TP Hồ Chí Minh đến Quảng Bình đã hoàn thành vào tháng 8-2022; đoạn tuyến mạch 3 còn lại từ tỉnh Quảng Bình (nay thuộc tỉnh Quảng Trị) tới tỉnh Hưng Yên cũng đã được hoàn thành vào cuối tháng 8-2024. Đây là công trình trọng điểm quốc gia, được Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính biểu dương là “kỳ tích chưa từng có” của ngành điện lực và xây dựng Việt Nam, với tiến độ thi công chỉ hơn 6 tháng cho khối lượng công việc khổng lồ.
Tính đến nay, một hệ thống lưới điện hùng mạnh, hiện đại và liên kết toàn quốc, đóng vai trò then chốt trong vận hành, điều độ và cân bằng nguồn điện trong cả nước đã được hình thành. Tổng chiều dài đường dây truyền tải điện 500kV đã đạt 11.841km; đường dây 220kV đạt 20.667km. Điều này góp phần để 100% số xã có điện; hơn 99,83% hộ dân được sử dụng điện, trong đó khu vực nông thôn đạt hơn 99,74%. Hệ thống cáp ngầm xuyên biển đã đưa điện lưới quốc gia đến các đảo có vị trí chiến lược như Phú Quốc, Cô Tô, Lý Sơn... Không chỉ dừng lại ở nội địa, hệ thống truyền tải điện của Việt Nam đã vươn ra kết nối với các nước láng giềng như Trung Quốc, Lào, Campuchia, ở các cấp điện áp từ 22kV đến 220kV. Đây là minh chứng cho tầm vóc và năng lực điều phối hệ thống ngày càng cao của Việt Nam trong khu vực.
Nhìn lại thành tựu 80 năm của đất nước kể từ ngày độc lập và hành trình hơn 70 năm phát triển hệ thống truyền tải điện không chỉ là câu chuyện kỹ thuật. Đó là câu chuyện của ý chí con người Việt Nam, của hàng nghìn kỹ sư, công nhân không quản ngại gian khổ bám trụ tại vùng sâu, vùng xa, trên đỉnh đèo, giữa rừng thiêng, biển lớn hay giữa đại dịch Covid-19 khắc nghiệt... Hơn nữa, mỗi trạm biến áp, mỗi ki-lô-mét đường dây là dấu ấn của lao động sáng tạo, của công nghệ hiện đại và tinh thần tiên phong, đổi mới. Đặc biệt, trong giai đoạn chuyển đổi số, ngành truyền tải điện đang ứng dụng mạnh mẽ các giải pháp số hóa, điều khiển xa, giám sát thông minh, giúp hệ thống điện không chỉ an toàn, thông suốt mà còn thông minh, linh hoạt và tối ưu hóa vận hành.
VŨ DUNG