Hào khí Trương Định và nỗi lòng Đồ Chiểu

Hào khí Trương Định và nỗi lòng Đồ Chiểu
3 giờ trướcBài gốc
Theo dấu xưa đất phương Nam, chúng tôi về Đám Lá Tối Trời dâng hương và tìm lại bước chân hào khí những người giữ đất giữ nước còn nhiều bí ẩn...
Đám Lá Tối Trời ở Gò Công nay thuộc tỉnh An Giang là nơi Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định chọn làm căn cứ địa phất cờ khởi nghĩa, đồng thời cũng là nơi cuối cùng vị lãnh tụ nêu cao dũng khí khi rút gươm tự sát trước họng súng quân thù. Khi hoàng hôn vê,ì tôi như nghe đâu đây âm vang bước chân những nghĩa sĩ năm xưa trong tiếng rì rào của gió, tiếng xạc xào của dừa, tiếng nỉ non của côn trùng.
Theo ý dân kháng lệnh vua đánh Pháp đến cùng
Trương Định hay Trương Công Định sinh năm 1820 ở xã Tư Cung, phủ Bình Sơn nay thuộc xã Tịnh Khê, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi. Năm 24 tuổi ông đã theo cha là võ quan Trương Cầm vào Gia Định đóng quân. Ông gặp gỡ kết duyên với bà Lê Thị Thưởng (còn gọi Lê Thị Lập) con gái một nhà hào phú ở làng Tân Phước, huyện Tân Hòa, tức Gò Công. Đến khi người cha qua đời, Trương Định về sống quê vợ, nhiệt tình hưởng ứng chính sách khẩn hoang của triều đình nhà Nguyễn do danh tướng Nguyễn Tri Phương thi hành.
Lăng mộ Trương Định.
Năm 1854, Trương Định mang hết gia sản ra chiêu mộ 500 dân nghèo vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi vào khai hoang lập đồn điền ở Gia Thuận, Gò Công. Ông được triều đình Huế phong chức Quản cơ, hàm Lục phẩm, nên thường được dân chúng gọi là Quản Định. Ông toàn quyền quản lý, coi sóc vùng đất mới tạo lập và rèn luyện quân lính dưới trướng. Vào thời kỳ khẩn hoang, Trương Định đã gặp và cưới thêm người vợ thứ là bà Trần Thị Sanh, em con cô con cậu với bà Thái hậu Từ Dụ mẹ vua Tự Đức.
Đầu năm 1861, liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công Đại đồn Chí Hòa ở thành Gia Định. Trương Định đem hàng vạn quân phối hợp với tướng Nguyễn Tri Phương giữ phòng tuyến. Suốt hai ngày hai đêm chiến đấu, quân ta gây nhiều thiệt hại cho giặc, trong đó có Quan 5 Tây Ban Nha Planca, 4 sĩ quan cao cấp, nhưng quân ta cũng bị tổn thất nặng nề, hai vị tướng chủ chốt là Tán lý Nguyễn Duy và Tán tương Tôn Thất Trĩ trúng đạn hy sinh, trong khi Tổng thống quân vụ Nguyễn Tri Phương bị trọng thương, chỉ còn Tham tán Phạm Thế Hiển lo đốc chiến và chỉ huy lui quân về Biên Hòa cố thủ.
Đại đồn Chí Hòa thất thủ. Trương Định rút lui về Gò Công tiếp tục chiêu binh mãi mã trấn giữ đất. Năm 1862, triều đình Tự Đức sắc phong Trương Định chức Phó lãnh binh tỉnh Gia Định. Dưới sự lãnh đạo của ông, phong trào khởi nghĩa dâng cao, thu hút đại bộ phận nhân dân khắp miền sông nước tham gia.
Lực lượng nghĩa quân triển khai trấn giữ, tập kích quân địch tại các vùng Gò Công, Mỹ Tho, Tân An, Chợ Lớn, Sài Gòn, Đồng Tháp Mười và kéo dài đến tận biên giới Campuchia. Thấy được tài năng quân sự của Trương Định, Tuần phủ Đỗ Quang của Gia Định tâu lên triều đình đề bạt ông làm Lãnh binh chỉ huy quân lính đánh Pháp.
Ngày 5/6/1862, triều đình nhà Nguyễn ký kết Hòa ước Nhâm Tuất, thừa nhận cho Pháp cai quản 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Gia Định, Định Tường, Biên Hòa) và đảo Côn Lôn; đồng thời mở ba cửa biển (Đà Nẵng, Ba Lạt, Quảng Yên) cho Pháp vào buôn bán.
Triều đình Huế ra lệnh tất cả các lực lượng chống Pháp phải bãi binh. Riêng Trương Định, triều đình buộc ông phải bãi binh ở Tân Hòa, sang nhận chức ở vùng khác. Thế nhưng dân chúng và nghĩa quân không đồng ý. Giữa lúc giằng xé giữa lệnh vua và ý dân, ông lại nhận được lá thư đầy tâm huyết của nghĩa hào vùng Tân Long do ông Phan Tấn Phát truyền đạt mong muốn ông ở lại đứng ra làm nguyên soái chỉ huy quân dân ba tỉnh đánh đuổi giặc.
Cảm kích trước sự tin yêu của nhân dân vì sự tự do độc lập của đất nước, Trương Định kháng lệnh vua, tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông rút quân về Gò Công đóng căn cứ tại Đám lá tối trời, xưng là Trung thiên Tướng quân và được nhân dân tôn là Bình Tây Đại Nguyên soái, chiêu mộ thêm binh lính và hậu cần, tổ chức nhiều cuộc phục kích đánh tiêu hao lực lượng địch ở nhiều nơi. Tri huyện Tân Hòa là Đỗ Trình Thoại cùng nhiều thân hào kẻ sĩ cũng hỗ trợ ông.
"Vì nước tấm thân đã nấy, còn mất cũng cam"
Kể từ ngày 16/12/1862, dưới sự chỉ huy thống nhất của Bình Tây Đại nguyên soái Trương Định, một cuộc tổng tiến công của nghĩa quân vào các đồn trại địch đã nổ ra ở vùng Gia Định, Biên Hòa, Định Tường. Trong đó, trận đánh lớn đầu tiên của quân khởi nghĩa là tấn công lúc nửa đêm vào đồn Rạch Tra trên đường Sài Gòn đi Tây Ninh, giết đồn trưởng Thouroude, thu được hầu hết vũ khí đạn dược rồi rút lui.
Năm 1862, nghĩa quân dưới quyền chỉ huy của Trương Định đã gây cho quân Pháp nhiều tổn thất và giành lại quyền kiểm soát nhiều vùng đất chiến lược. Sang năm 1863, quân Pháp bắt đầu tập trung lực lượng phản công, chiếm đại bản doanh Tân Hòa, buộc Trương Định phải rút về Phước Lộc lập căn cứ mới, phân tán lực lượng về các vùng sâu vùng xa tiếp tục chiến đấu. Đến tháng 8/1864, Trương Định từ nơi trú quân ở Lý Nhơn chuyển sang ven sông Soài Rạp tập hợp lực lượng lên tới 10.800 người, nhằm đánh chiếm lại căn cứ Tân Hòa - Đám Lá Tối Trời.
Vào chiều tối 19/8/1864, tên thủ hạ Huỳnh Công Tấn phản bội đã dẫn đường cho quân địch bất ngờ kéo tới bao vây nhằm bắt sống Trương Định tại nhà ở làng Tân Phước. Lúc ấy chỉ 25 nghĩa quân đi theo hộ vệ ông, cùng rút vào cố thủ căn cứ địa Đám Lá Tối Trời. Cuộc chiến đấu ác liệt diễn ra. Chẳng may gần sáng ông bị một viên đạn kẻ thù bắn vào cột sống. Không để rơi vào tay giặc, vị lãnh tụ nghĩa quân kiên cường đã dùng gươm tự sát. Đó là ngày 20/8/1864 lúc Trương Định mới 44 tuổi.
Hay tin người anh hùng chống Pháp hàng đầu ở Nam Kỳ tuẫn tiết, cụ Đồ Chiểu bàng hoàng hạ bút viết bài văn tế ông: "Dầu những đại đồn thuở trước, cũng khó toan đè trứng nghìn cân/ Huống chi cô lũy ngày nay, đâu dám chắc treo mành một giải/ Nhưng vậy mà: Vì nước tấm thân đã nấy, còn mất cũng cam/ Giúp đời cái nghĩa đáng làm, nên hư nào nại/ Rạch Lá, Gò Công mấy trận, người thấy đã kinh/ Cửa Khâu, Trại Cá khắp nơi, ai nghe chẳng hãi".
"Văn tế Trương Định" cùng với "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" của thi hào Nguyễn Đình Chiểu là hai áng hùng văn có sức chinh phục mạnh mẽ lòng người. Sau niềm tự hào là nỗi thương tiếc: "Xưa còn làm tướng, dốc dạng dồi hai chữ Bình Tây/ Nay thác theo thần, xin dâng hộ một câu Phúc Thái…".
Nguyễn Đình Chiểu còn làm 12 bài thơ thất ngôn bát cú liên hoàn ai điếu tưởng nhớ Anh hùng Trương Định, trong đó bài đầu tiên:
Trong Nam, tên họ nổi như cồn
Mấy trận Gò Công nức tiếng đồn
Đấu đạn hỡi rêm tàu bạch quỷ
Hơi gươm thêm rạng vẻ hoàng môn
Ngọn cờ ứng nghĩa trời chưa bẻ
Quả ấn Bình Tây đất vội chôn
Nỡ khiến anh hùng rơi giọt lụy
Lâm dâm ba chữ điếu linh hồn.
Dân gian Nam Kỳ cũng tiếc thương truyền tụng về vị lãnh tụ Bình Tây:
Đêm năm canh thương người chính liệt
Ngày sáu khắc nhớ kẻ trung thần
Cờ đề chữ Bình Tây Đại tướng.
Bình Tây Đại Nguyên soái Trương Định ngã xuống. Địch kéo xác ông từ Đám Lá Tối Trời về phơi tại chợ Gò Công để thị uy dân chúng. Người vợ thứ của ông là bà Trần Thị Sanh bằng uy thế quan hệ thân tộc với Thái hậu Từ Dụ, đã tìm cách nhận xác chồng về tổ chức tang ma trọng thể và đưa đi an táng, xây lăng mộ ở trung tâm Gò Công.
Đông đảo nhân dân từ khắp nơi về nghiêng mình tưởng nhớ Anh hùng Trương Định. Trung úy Guys chỉ huy quân Pháp ở Gò Công cũng phải dẫn một tiểu đội danh dự đến đứng dàn chào và phúng điếu 1.000 quan tiền. Đây là điều ngạc nhiên hiếm có về cái chết của một lãnh tụ khởi nghĩa trước mắt kẻ thù.
Ngoài mộ và đền thờ tại thành phố Gò Công thì tại Đám Lá Tối Trời ở xã Gia Thuận, huyện Gò Công Đông, nhân dân cũng lập một đền thờ Anh hùng Trương Định. Qua câu chuyện với người thủ từ đền, chúng tôi được biết nhiều câu chuyện ly kỳ còn mãi được truyền tụng trong dân gian về Đám Lá Tối Trời.
Rằng sau khi lãnh tụ Trương Định tuẫn tiết, căn cứ địa này trở nên hoang vắng, âm u, ma quái. Cảnh vật thê lương. Con người không ai dám đặt chân tới. Những oan hồn uổng tử nghĩa quân bị phản bội mãi u uất, vướng vất không siêu thoát cứ hiện về đêm đêm. Tiếng người gào thét. Tiếng ngựa phi. Tiếng gươm giáo sắc lẹm. Tiếng súng đì đoàng. Tiếng trống rền vang.
Một vài người gan dạ ban đêm rủ nhau bơi xuồng nhỏ vào Đám Lá Tối Trời. Đến sáng trở về, những người này mặt mày biến sắc, ai hỏi gì cũng không nói, chỉ buồn bã lắc đầu. Thật lạ lùng ma mị.
Dù ngày nay vùng đất Đám Lá Tối Trời đã hoàn toàn đổi khác, đồng ruộng tươi xanh, vườn tược xum xuê, dân cư đông đúc nhưng những câu chuyện oai hùng và ly kỳ vẫn còn truyền tụng mãi như một phần đời sống tâm linh đầy hào khí của nhân dân Gò Công.
Phan Hoàng
Nguồn VNCA : https://vnca.cand.com.vn/tu-lieu-van-hoa/hao-khi-truong-dinh-va-noi-long-do-chieu-i788087/