Nông dân phường Đông Lễ, thành phố Đông Hà (Quảng Trị) tỉa, dặm lúa Đông Xuân. (Ảnh: Nguyên Lý/TTXVN)
Trồng lúa, nghề truyền thống cội rễ của dân tộc Việt tưởng như đơn thuần gắn với mùa màng, giờ đây đang mang theo một giá trị khác đó là giá trị của khí hậu toàn cầu.
Mỗi bước chân trên đồng ruộng giờ đây không chỉ gieo hạt mà còn gieo cả dữ liệu phát thải và dòng tiền carbon - nơi mỗi tín chỉ giảm phát thải trở thành thước đo mới cho giá trị hạt lúa Việt.
Bài 1: Hạt giống xanh cho chiến lược lúa phát thải thấp
Tại tỉnh Quảng Trị, những cánh đồng lúa dọc sông Thạch Hãn, vùng trũng Lệ Thủy (cũ) hay ven đồi Hải Lăng (cũ) đang trở thành vùng canh tác lúa carbon thấp, nơi từng quy trình bón phân, quản lý nước và thu hoạch đều được giám sát bằng công nghệ số.
Mỗi hạt lúa không chỉ mang theo dư vị mùa màng, mà còn được định danh trên thị trường tài chính carbon, như một tài sản xanh mới nổi của nền kinh tế nông nghiệp bền vững.
Từ kỹ sư đến hợp tác xã, từ ứng dụng điện thoại đến các tổ chức tài chính khí hậu, một hệ sinh thái đang dần hình thành, góp phần để lúa gạo Việt Nam vươn lên trong chuỗi giá trị toàn cầu bằng chính lợi thế carbon thấp.
Gieo những bước đầu tiên
Từ năm 2024, hai tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị (nay hợp nhất là tỉnh Quảng Trị) được chọn là 2 trong số những địa phương đầu tiên của cả nước (cùng với thành phố Huế và tỉnh Đồng Tháp cũ) tham gia thí điểm Dự án xây dựng mô hình đồng ruộng lúa carbon thấp, thuộc hợp phần giảm nhẹ phát thải trong chương trình hành động quốc gia về biến đổi khí hậu do Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với các tổ chức phát triển quốc tế thực hiện, đã mở đầu cho chiến lược đưa nông nghiệp Việt Nam tiến vào thị trường tín chỉ carbon quốc tế.
Dự án hướng tới mục tiêu xây dựng mô hình quản lý sản xuất lúa có khả năng kiểm kê và giảm phát thải khí nhà kính, tích hợp công nghệ canh tác bền vững, số hóa dữ liệu đồng ruộng, và hình thành chuỗi giá trị lúa carbon thấp. Dự án được triển khai với sự hỗ trợ của Công ty Green Carbon Inc (Nhật Bản), Tổ chức JICA và Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Bắc Trung Bộ.
Trên cánh đồng 29,5ha tại xã Vĩnh Thủy, phương pháp AWD (tưới ngập, khô xen kẽ) được áp dụng đồng bộ cùng nhiều biện pháp quản lý nước-phân-rơm rạ chặt chẽ. Đây được kỳ vọng là hướng đi chiến lược để nông nghiệp Việt Nam hội nhập vào thị trường khí hậu toàn cầu.
Kỹ sư Nguyễn Trọng Hiếu, điều phối viên kỹ thuật mô hình cho biết: “Chúng tôi sử dụng ứng dụng điện thoại để nông dân cập nhật trực tiếp thông tin bón phân, làm cỏ, thu hoạch. Mỗi bước canh tác đều gắn với dữ liệu số, là cơ sở để kiểm đếm tín chỉ carbon và phân bổ quyền lợi công bằng.”
Tại ruộng lúa của anh Trần Văn Mùi, xã Hải Lăng, việc sử dụng phân hữu cơ và giống chịu hạn đã giúp ruộng trổ đều, giảm sâu bệnh và cải thiện sức khỏe đất. Còn chị Lê Thị Lan, xã Vĩnh Hoàng chia sẻ: “Khi mực nước ruộng xuống đến âm 15cm (tức thấp hơn mặt ruộng 15cm) thì mới được bơm lại, gọi là kỹ thuật AWD. Nhờ đó mà tiết kiệm nước, giảm phát thải mà năng suất tăng.”
Tiến sỹ Trịnh Đức Toàn - Phó Viện Trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Nghiệp Bắc Trung bộ cho biết: "AWD thực chất là quy trình kỹ thuật điều tiết nước phù hợp với từng thời kỳ sinh trưởng và phát triển của cây lúa với những giai đoạn cây lúa không cần quá nhiều nước sẽ tiến hành để ruộng khô tự nhiên, mực nước có thể âm đến 15 cm so với mặt đất. Qua đó, ức chế hoạt động của vi sinh vật yếm khí trong đất, giảm thiểu quá trình phát thải khí CH4 trong canh tác lúa. Trong điều kiện bình thường, kỹ thuật này có thể giảm 30-70% lượng khí CH4 phát thải so với phương pháp tưới ngập truyền thống."
Hệ thống đo giảm phát thải tại ruộng lúa. (Ảnh: Thu Hiền/TTXVN)
Các kết quả đo đạc khí CH4 được thực hiện định kỳ 7 ngày/lần bằng buồng lấy mẫu chuyên dụng. Dữ liệu cho thấy, trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt của vụ Xuân 2025 (nhiệt độ dao động 17-34 độ C, độ ẩm lên tới 99%), mô hình AWD duy trì năng suất cao hơn phương pháp canh tác truyền thống, đồng thời cắt giảm phát thải CH4 từ 62,4-67,98% trong vụ Đông Xuân - phù hợp với các nghiên cứu quốc tế đã được kiểm chứng.
Không chỉ dừng ở mục tiêu giảm phát thải, dự án còn kỳ vọng tạo ra tín chỉ carbon đủ điều kiện giao dịch trên thị trường quốc tế. “Toàn bộ quá trình theo dõi, đo lường, thẩm tra phát thải và lưu trữ số liệu đều theo chuẩn Gold Standard,” Tiến sỹ Trịnh Đức Toàn nhấn mạnh. Đây chính là bước đầu để nông dân Vĩnh Thủy có thể “xuất khẩu không khí” - một khái niệm từng xa vời, giờ đang dần định hình.
Trồng lúa đo khí thải
Một hạt lúa nặng bao nhiêu? Trên bàn cân của người mua - là trọng lượng. Trong ký ức người trồng - là bao mùa mưa nắng. Nhưng giờ đây, trên thị trường carbon, mỗi hạt lúa còn mang thêm một giá trị vô hình: lượng khí nhà kính đã được cắt giảm trong suốt quá trình canh tác.
Từ vụ Xuân 2025, nhiều hợp tác xã ở Quảng Trị đã áp dụng các quy trình canh tác giảm phát thải khí CO2eq (carbon dioxide equivalent, tức là "đương lượng CO2" - đơn vị dùng để quy đổi tổng tác động của các khí nhà kính khác nhau về mức độ gây nóng lên tương đương với CO2) theo hướng chính quy. Trong số đó, Hợp tác xã Gia Độ, Hợp tác xã Triệu Thuận, Hợp tác xã Bích La... được xem là "hạt nhân" trong các chuỗi thí điểm mô hình lúa AWD - giảm CH4.
Nông dân huyện Cam Lộ thu hoạch lúa Đông Xuân. (Ảnh: Hồ Cầu/TTXVN)
Kỹ sư Trần Minh Vượng, người phụ trách kỹ thuật cho Hợp tác xã Gia Độ, chia sẻ: "Khi nghe đến chuyện đo khí phát thải từ ruộng lúa, nhiều nông dân ngỡ ngàng lắm. Họ tưởng chỉ nhà máy mới có khí thải. Giờ biết rằng ruộng cũng góp phần lớn vào biến đổi khí hậu thì ai cũng quan tâm.”
Chị Nguyễn Thị Nhàn, xã Quảng Ninh, sau khi tham gia canh tác lúa giảm phát thải, nói: “Mới đầu nghe ‘tín chỉ carbon’ cứ tưởng chuyện quốc tế xa xôi. Ai ngờ cứ trồng lúa đúng quy trình thì có thể bán được luôn, mà lại có lợi cho môi trường.”
Ông Phạm Văn Đạt, nông dân xã Câu Nhi, thì chia sẻ: “Giờ trồng lúa phải tính thêm chuyện phát thải. Nhà tôi có gần 2 mẫu, trước bơm nước suốt, nay để khô rồi mới bơm tiếp, thấy đỡ tốn, lúa chắc hạt mà lại còn được cán bộ hướng dẫn thêm chuyện carbon.”
Mỗi ruộng lúa thí điểm đều được gắn ống đo mực nước, theo dõi bằng nhật ký canh tác và đối chiếu với các mốc thời gian lấy mẫu khí CH4. Việc ghi chép các lần tắt - mở máy bơm, lượng nước tưới, loại phân bón, cách xử lý rơm rạ được đào tạo đồng bộ cho đội ngũ nông dân trực tiếp và hợp tác xã.
Theo bà Nguyễn Hồng Phương, Phó Giám Đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị, chìa khóa của thành công là đảm bảo được minh bạch, đồng bộ và lưu trữ số liệu chuẩn.
"Khi xây dựng được cở sở dữ liệu theo chuẩn quốc tế, chúng ta mới được đánh giá và tham gia vào các chương trình trao đổi tín chỉ carbon," bà Phương nhấn mạnh./.
Bài 2: Hành trình định danh trên thị trường carbon
(TTXVN/Vietnam+)