Quốc hội Iran ngày 22/6 đã thông qua biện pháp đóng cửa Eo biển Hormuz – tuyến đường mà 20% lượng dầu và khí đốt đi qua. “Hiện tại, Quốc hội Iran đã đi đến kết luận rằng chúng ta nên đóng cửa Eo biển Hormuz, nhưng quyết định cuối cùng thuộc về Hội đồng An ninh Quốc gia Tối cao Iran”, ông Esmail Kosari, thành viên Ủy ban an ninh quốc gia của Quốc hội Iran nhấn mạnh.
Truyền hình nhà nước Iran cho biết, quyết định cuối cùng thuộc về Hội đồng An ninh Quốc gia Tối cao Iran. Ngoại trưởng Iran cũng cảnh báo, Tehran “giữ mọi lựa chọn để bảo vệ chủ quyền” sau các cuộc không kích của Mỹ.
Dù từng nhiều lần đe dọa phong tỏa tuyến hàng hải chiến lược này, nhưng Iran cho đến nay vẫn chưa hiện thực hóa tuyên biố. Tuy nhiên, nếu điều đó xảy ra, tác động sẽ không chỉ dừng lại ở khu vực mà còn lan rộng ra toàn cầu, đặc biệt là thị trường dầu mỏ.
Ảnh vệ tinh chụp Eo biển Hormuz ngày 24/5/2017. Nguồn: Gallo Images/Getty Images
Ý nghĩa chiến lược của Eo biển Hormuz
Eo biển Hormuz nằm giữa Iran và Oman, nối Vịnh Ba Tư ở phía Bắc với Vịnh Oman và Biển Arab ở phía Nam. Tại điểm hẹp nhất, eo biển chỉ rộng khoảng 33 km, trong đó luồng hàng hải cho tàu thuyền qua lại chỉ rộng 3 km mỗi chiều.
Khoảng 1/5 lượng dầu tiêu thụ toàn cầu đi qua eo biển Hormuz. Năm 2024, khoảng 20 triệu thùng dầu/ngày – tương đương 20% nhu cầu toàn cầu – đã được vận chuyển qua tuyến đường này, theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA). Theo dữ liệu từ công ty phân tích Vortexa, từ đầu năm 2022 đến tháng 5/2025, mỗi ngày có từ 17,8 đến 20,8 triệu thùng dầu thô, khí đốt và nhiên liệu được vận chuyển qua tuyến này.
Các quốc gia thành viên Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) như Saudi Arabia, Iran, Các Tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE), Kuwait và Iraq chủ yếu xuất khẩu dầu thô qua eo biển Hormuz, với thị trường tiêu thụ chính là châu Á. Trong những năm gần đây, UAE và Saudi Arabia đã nỗ lực phát triển các tuyến vận chuyển thay thế nhằm giảm phụ thuộc vào eo biển này.
Theo Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA), tính đến giữa năm 2024, khoảng 2,6 triệu thùng/ngày công suất dự phòng từ các tuyến đường ống hiện có ở UAE và Saudi Arabia có thể được sử dụng để tránh qua Hormuz.
Ngoài dầu mỏ, khí đốt hóa lỏng (LNG) cũng là mặt hàng chiến lược được vận chuyển qua eo biển này. Qatar, một trong những quốc gia xuất khẩu LNG lớn nhất thế giới, vận chuyển gần như toàn bộ sản lượng LNG của mình qua Hormuz.
Lực lượng Hạm đội 5 của Hải quân Mỹ, đóng tại Bahrain, chịu trách nhiệm bảo vệ hoạt động hàng hải thương mại tại khu vực này. Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio khẳng định Washington có “nhiều phương án ứng phó” nếu Iran cố tình phong tỏa eo biển, đồng thời cho rằng bất kỳ hành động nào như vậy sẽ dẫn đến phản ứng không chỉ từ Mỹ mà còn từ các quốc gia khác.
Lịch sử căng thẳng tại eo biển Hormuz
Eo biển Hormuz từng là điểm nóng trong các cuộc đối đầu khu vực và toàn cầu liên quan đến dầu mỏ. Năm 1973, các nước Arab do Saui Arabia dẫn đầu đã áp đặt lệnh cấm vận dầu mỏ nhằm phản đối sự ủng hộ của phương Tây với Israel trong cuộc chiến với Ai Cập.
Nếu như trước đây, phần lớn dầu thô từ các nước Arab xuất sang phương Tây, thì hiện nay châu Á là thị trường tiêu thụ chính của OPEC. Trong khi đó, Mỹ tăng đã hơn gấp đôi sản lượng dầu và các sản phẩm liên quan trong hai thập niên qua, từ một quốc gia nhập khẩu lớn nhất thế giới trở thành một trong những nước xuất khẩu hàng đầu.
Trong cuộc chiến Iran-Iraq (1980–1988), cả hai bên đều tìm cách phá hoại hoạt động xuất khẩu dầu của nhau, giai đoạn được gọi là “Cuộc chiến tàu chở dầu”. Tháng 7/1988, một tàu chiến Mỹ bắn rơi một máy bay dân sự của Iran, khiến toàn bộ 290 người thiệt mạng. Mỹ nói đây là một tai nạn, trong khi Iran cáo buộc đó là hành động cố ý.
Tháng 1/2012, Iran từng đe dọa đóng cửa eo biển nhằm đáp trả các lệnh trừng phạt của Mỹ và châu Âu. Đến tháng 5/2019, bốn tàu thương mại, trong đó có hai tàu chở dầu của Ả Rập Xê Út, bị tấn công gần bờ biển UAE, ngoài khơi eo biển Hormuz.
Trong các năm 2023 và 2024, Iran đã bắt giữ ba tàu hàng, 2 vụ diễn ra năm 2023 và một vụ vào năm 2024, tại hoặc gần khu vực eo biển Hormuz. Một số vụ bắt giữ được cho là nhằm đáp trả việc Mỹ thu giữ các tàu liên quan đến Iran.
Những vụ tấn công nhằm vào tàu chở hàng trong và quanh eo biển Hormuz đã làm dấy lên lo ngại rằng, bất kỳ cuộc xung đột nào tại vùng Vịnh cũng có thể gây gián đoạn nghiêm trọng cho chuỗi cung ứng năng lượng toàn cầu.
Thị trường dầu mỏ hiện nay nhìn chung tin rằng Hải quân Mỹ sẽ nhanh chóng đánh bại mọi nỗ lực của Iran nhằm phong tỏa Eo biển Hormuz. Tuy nhiên một số nhà phân tích cảnh báo thị trường đang đánh giá thấp rủi ro. Nếu xảy ra phong tỏa thực sự, việc vận chuyển dầu có thể bị gián đoạn trong nhiều tuần, thậm chí vài tháng.
Bên nào sẽ chịu rủi ro nhiều nhất?
Trung Quốc hiện là khách hàng mua dầu lớn nhất của Iran, chiếm phần lớn sản lượng xuất khẩu của nước này. Theo dữ liệu từ Kpler, chỉ riêng trong tháng trước, Iran đã xuất khẩu 1,84 triệu thùng/ngày, phần lớn sang Trung Quốc. Khoảng một nửa lượng dầu thô mà Trung Quốc nhập khẩu qua đường biển đến từ khu vực Vùng Vịnh.
Phát biểu trên Fox News, Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio kêu gọi Trung Quốc đóng vai trò tích cực trong việc ngăn chặn Iran phong tỏa eo biển Hormuz. “Tôi khuyến nghị chính phủ Trung Quốc hãy gọi cho họ, vì Trung Quốc phụ thuộc rất nhiều vào eo biển Hormuz cho nguồn cung dầu”, ông Rubio nói.
Một số chuyên gia nhận định nếu Iran chặn đường xuất khẩu dầu của chính mình qua eo biển Hormuz, đó sẽ là “đòn tự giáng vào nền kinh tế”. Ông Matt Smith, trưởng nhóm phân tích dầu tại Kpler, bình luận: “Phong tỏa eo biển sẽ khiến nguồn thu từ xuất khẩu dầu sang Trung Quốc, nguồn thu chủ lực của Iran, bị cắt đứt”.
Dù nhiều nhà phân tích như JPMorgan đánh giá khả năng Iran thực sự phong tỏa eo biển là thấp, bởi hành động này có thể bị Mỹ coi là tuyên bố chiến tranh, nhưng theo theo Goldman Sachs và Rapidan Energy Group giá dầu vẫn có thể vượt ngưỡng 100 USD/thùng nếu căng thẳng kéo dài.
Hoàng Phạm/VOV.VN Theo SBS, CNBC