Hiến kế cho mô hình Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam - Kỳ cuối: Cần xem xét có cơ chế 'liên thông' thị trường chứng khoán

Hiến kế cho mô hình Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam - Kỳ cuối: Cần xem xét có cơ chế 'liên thông' thị trường chứng khoán
một ngày trướcBài gốc
Một số mối quan hệ phối hợp cần hướng dẫn chi tiết
Theo TS Nam, điểm b khoản 6 Điều 5 Nghị quyết 222/2025/QH15 của Quốc hội quy định Nhà nước có cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi thu hút nguồn vốn, công nghệ, phương thức quản lý hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao, phát triển kết cấu hạ tầng vào TTTCQT nhằm phát triển thị trường chứng khoán, bảo hiểm, tài sản số…
Để thực hiện định hướng này, việc hoàn thiện và cải cách khung pháp lý liên quan hoạt động GDCK, theo TS Nam, là “vô cùng cần thiết”. Trước tiên, cần sớm ban hành các quy định hướng dẫn về mối quan hệ phối hợp giữa cơ quan điều hành, cơ quan giám sát TTTCQT với các cơ quan quản lý nhà nước khác, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và các Bộ, ngành liên quan là rất cần thiết.
“Theo khoản 4 Điều 9 Nghị quyết 222, cơ quan điều hành và giám sát TTTCQT phải phối hợp Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan ngang Bộ trong nhiệm vụ quản lý, giám sát. Cần có hướng dẫn cụ thể về cơ chế phối hợp để tránh chồng chéo, xung đột thẩm quyền, đồng thời giữ cho hoạt động quản lý được minh bạch, hiệu quả”, TS Nam nói.
Hiện tại, Nghị quyết 222 mới chỉ đề cập các nguyên tắc chung, chưa triển khai cụ thể thủ tục niêm yết, giao dịch, thanh toán hay lưu ký chứng khoán trong TTTCQT. Các văn bản hướng dẫn về các vấn đề này cần quy định rõ vai trò của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong việc cấp phép và giám sát hoạt động tại TTTCQT và tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế như của Tổ chức Quốc tế các Ủy ban Chứng khoán (IOSCO) về bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư và minh bạch thị trường.
Một nội dung khác cần hoàn thiện sớm, theo TS Nam, là các quy định liên quan ưu đãi thuế và cơ chế quản lý ngoại hối trong lĩnh vực chứng khoán nhằm tạo lợi thế cạnh tranh cho TTTCQT tại Việt Nam.
“Hiện nay, quy định về ưu đãi thuế trong lĩnh vực chứng khoán tại Việt Nam chưa tương xứng với nhu cầu phát triển TTTCQT, chưa đủ sức để cạnh tranh với các TTTCQT trong khu vực. Như tại TTTCQT Dubai (DIFC), áp dụng miễn thuế thu nhập DN lên đến 50 năm. Singapore thì duy trì thuế DN khoảng 17%, cùng một số ưu đãi tài chính khác, nên vẫn thu hút các nhà đầu tư (NĐT) trong bối cảnh căng thẳng thương mại toàn cầu”, TS Nam nói.
Vẫn theo TS Nam, cơ chế thanh toán đa tiền tệ tự do, luân chuyển vốn linh hoạt và minh bạch cũng cần được xây dựng đầy đủ, đồng bộ với các quy định quản lý tài khoản ngoại hối của NĐT và các thủ tục hành chính liên quan trong GDCK. Để minh bạch và dễ kiểm soát, nên thống nhất áp dụng phương thức quản lý tiền GDCK thông qua việc khách hàng mở tài khoản trực tiếp tại các ngân hàng thương mại mà Cty chứng khoán chỉ định quản lý, thay vì để Cty chứng khoán quản lý tập trung, nhằm tăng cường lòng tin của NĐT với TTTCQT.
Kết nối các TTTCQT nhằm tránh phân mảnh thị trường
Vấn đề nữa TS lưu ý, là chúng ta cần xem xét xây dựng các quy định làm rõ mối quan hệ và sự kết nối giữa TTTCQT tại TP HCM và Đà Nẵng nhằm tránh tình trạng phân mảnh thị trường, gia tăng tính liên kết, vận hành hiệu quả. Nếu thiếu sự liên thông, có thể dẫn đến chồng chéo, giảm giá trị tổng thể của các hoạt động tài chính trong TTTCQT nói chung, đặc biệt trong lĩnh vực chứng khoán nói riêng.
Tại Singapore, việc tích hợp các sàn giao dịch khu vực đã giúp Sở GDCK Singapore duy trì, phát triển vị thế và đối phó hiệu quả với các thách thức từ công nghệ tài chính mới. Chúng ta cần tạo cơ chế cho phép chứng khoán niêm yết tại TTTCQT TP HCM có thể được giao dịch tại TTTCQT Đà Nẵng, thông qua hệ thống chuyển đổi dữ liệu minh bạch. Đồng thời áp dụng mô hình “danh sách phủ định”, vừa nới lỏng tiêu chuẩn phát hành và niêm yết, vừa giữ an toàn, vừa thu hút NĐT quốc tế.
Việc xây dựng hệ thống giám sát giao dịch chứng khoán hiện đại, ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) để phát hiện các hành vi thao túng thị trường cũng là yếu tố quan trọng. Chúng ta cũng cần thiết kế các quy định chi tiết về hoạt động của cơ quan tài phán chuyên biệt xử lý tranh chấp tài chính xuyên biên giới.
Song song đó, các văn bản hướng dẫn cần tham khảo các quy định về phòng, chống rửa tiền (AML), chống tài trợ khủng bố (CTF), kiểm tra nguồn gốc tài sản minh bạch, góp phần ngăn chặn rủi ro.
“Chúng ta cũng cần thúc đẩy hợp tác quốc tế trong quản lý giám sát tài chính, chú trọng đào tạo nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực chứng khoán. Việc tăng cường mối quan hệ với các tổ chức quốc tế như IOSCO, DIFC, MAS sẽ giúp Việt Nam tiếp cận tri thức, công nghệ quản lý tiên tiến. Việc tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về quản trị rủi ro, luật tài chính quốc tế, và hướng đến quốc tế hóa lực lượng lao động như Singapore sẽ tạo nguồn nhân lực tinh nhuệ, đáp ứng yêu cầu phát triển lâu dài của TTTCQT”, TS Nam nói.
TS Nguyễn Hương Ly (Khoa Luật Thương mại, Đại học Luật TP HCM) góp ý, việc phát triển TTTCQT theo cơ chế đặc thù như quy định tại Điều 27 Nghị quyết 222 cần lưu ý một số vấn đề sau: để đồng bộ hóa với hệ thống pháp luật hiện hành, đặc biệt là Luật Đầu tư công, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công - tư (PPP)…
Trước tiên, cần rà soát hướng dẫn chi tiết việc miễn trừ bước quyết định chủ trương đầu tư và lập kế hoạch đầu tư công trung hạn theo khoản 7 và 8 Điều 27 Nghị quyết 222. “Trong khi Luật Đầu tư công quy định đây là các bước then chốt nhằm xác định tính cấp thiết, nguồn lực tài chính và thẩm quyền quyết định đầu tư, thì việc bỏ qua các bước này có thể tạo ra khoảng trống pháp lý, ảnh hưởng đến hiệu lực kiểm soát vốn và dẫn đến xung đột thẩm quyền giữa Trung ương và địa phương”, TS Ly nói.
“Cần có hướng dẫn cụ thể về thẩm quyền và trách nhiệm của các chủ thể trong trường hợp miễn trừ, đồng thời ban hành cơ chế phối hợp liên thông giữa các cơ quan Trung ương và địa phương để thống nhất tiêu chí đánh giá, quy trình ra quyết định. Bài học từ Singapore cho thấy, mọi dự án đầu tư công lớn tại khu tài chính Marina Bay đều được quản lý tập trung bởi cơ quan chuyên trách (Centre for Liveable Cities) với quy trình phân cấp rõ ràng nhưng vẫn có kiểm soát ngân sách trung ương chặt chẽ”, TS Ly nêu quan điểm.
Tiếp đến, cần thiết lập tiêu chí minh bạch trong cơ chế chỉ định NĐT và nhà thầu. Quy định tại Điều 27 cho phép chỉ định NĐT và nhà thầu mà không qua đấu thầu là vấn đề dễ phát sinh nghi vấn về minh bạch, lợi ích nhóm, đặc biệt với các dự án lớn sử dụng nguồn lực công. Nếu thiếu các tiêu chí định lượng, định tính cụ thể cho việc lựa chọn NĐT có thể khiến cơ chế đặc thù trở thành ngoại lệ pháp lý không kiểm soát được.
Nguyễn Trường Giang
Nguồn Pháp Luật VN : https://baophapluat.vn/hien-ke-cho-mo-hinh-trung-tam-tai-chinh-quoc-te-tai-viet-nam-ky-cuoi-can-xem-xet-co-co-che-lien-thong-thi-truong-chung-khoan.html