Bà Nguyễn Thị Thu Phương cho rằng, trung tâm Đà Nẵng gồm Hải Châu, Sơn Trà tiếp tục đóng vai trò “động cơ sáng tạo” trong phát triển ngành CNVH của thành phố.
Đà Nẵng phải là trung tâm sáng tạo vùng
Theo PGS.TS Nguyễn Thị Thu Phương (Viện Văn hóa – Nghệ thuật – Thể thao và Du lịch Việt Nam), sự chuyển dịch chiến lược của Việt Nam từ “quản lý văn hóa” sang “phát triển CNVH” được xác lập mạnh mẽ trong Chiến lược phát triển các ngành CNVH đến năm 2030, tầm nhìn 2045 (QĐ số 2486/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ) tạo cơ hội để Đà Nẵng hướng tới việc trở thành trung tâm sáng tạo mới của vùng Trung Trung Bộ, đóng vai trò dẫn dắt phát triển ngành quảng cáo, thiết kế sáng tạo, du lịch văn hóa – MICE, nội dung số, công nghiệp sự kiện và nghệ thuật đương đại. Đồng thời, trục Đà Nẵng – Hội An – Chu Lai được xác định là không gian chiến lược của cả vùng duyên hải miền Trung, hội tụ 3 giá trị cốt lõi: di sản, sáng tạo và đổi mới số. Điều này đặt ra yêu cầu Đà Nẵng phải chuyển từ mô hình “trung tâm du lịch – dịch vụ” sang “trung tâm sáng tạo vùng”, đồng thời đóng vai trò “hub kết nối” với Hội An như một đô thị di sản sáng tạo đặc thù.
Bà Phương chỉ ra 5 vấn đề then chốt cần giải quyết trong quá trình triển khai Đề án “Phát triển các ngành CNVH Đà Nẵng đến năm 2030”. Cụ thể, việc triển khai Đề án cần được đặt trong 2 lớp chính sách có quan hệ chặt chẽ là chiến lược quốc gia và không gian TP Đà Nẵng, mới có sự liên kết bên trong giữa Đà Nẵng – Hội An, đóng vai trò trung tâm của cụm sáng tạo duyên hải miền Trung.
Tiếp đó là tái cấu trúc Đà Nẵng theo mô hình “đô thị đa trung tâm sáng tạo” – một tiếp cận theo xu thế quốc tế. Ở trung tâm Đà Nẵng (Hải Châu, Sơn Trà, An Thượng), một số ngành như quảng cáo, nội dung số, âm nhạc, lễ hội và MICE tiếp tục đóng vai trò “động cơ sáng tạo”; còn 3 phường thuộc Hội An giữ vai trò đối trọng, trở thành phân khu di sản định vị bản sắc mới của Đà Nẵng mở rộng. Không gian phố cổ, nghệ nhân, nghề truyền thống, cảnh quan văn hóa và hệ thống thực hành dân gian tạo nên “lõi văn hóa” mà các đô thị hiện đại thường thiếu.
Vấn đề then chốt thứ ba là chuyển từ “liên kết vùng” sang “tích hợp không gian sáng tạo nội đô mở rộng”, nghĩa là tích hợp các không gian văn hóa khác biệt vào trong một cấu trúc đô thị thống nhất. Dòng chảy sáng tạo mới của Đà Nẵng vì vậy được định hình theo một vòng tròn khép kín: Di sản tạo cảm hứng cho sáng tạo; sáng tạo nâng tầm di sản thông qua thiết kế trình diễn, sự kiện; các sự kiện và hoạt động truyền thông tạo ra dòng khách, dòng dữ liệu và nguồn lực mới; và chính những dòng dữ liệu ấy lại mở đường cho các sản phẩm văn hóa mới, dịch vụ mới và thị trường mới.
Vấn đề then chốt thứ tư bà Phương nêu ra là ý nghĩa chính sách, bởi Đà Nẵng sở hữu hệ tài nguyên CNVH mạnh nhất miền Trung trong cấu trúc mới. Sau sáp nhập, Đà Nẵng có vị thế phát triển hoàn toàn khác so với mô hình đô thị hiện hữu nhiều năm qua, không chỉ mở rộng về địa lý mà quan trọng hơn là mở rộng về nền tảng văn hóa, nguồn lực sáng tạo và khả năng tổ chức chuỗi giá trị CNVH.
Vấn đề thứ năm, theo bà Phương, Đà Nẵng cần hoàn thiện quy hoạch phân khu văn hóa – sáng tạo trên nền 3 trung tâm chức năng đã định hình: Trung tâm sáng tạo – sự kiện; phân khu di sản – bản sắc và không gian sản xuất – dịch vụ sáng tạo. Quy hoạch này phải được thiết kế như một chỉnh thể thống nhất, đảm bảo sự dịch chuyển tự nhiên giữa di sản, sáng tạo đương đại và sản xuất văn hóa.
Hôi An được xác định trở thành phân khu di sản định vị bản sắc mới của Đà Nẵng mở rộng.
Không phát triển kiểu “vỏ mít”
Theo nhà nghiên cứu Bùi Văn Tiếng, điều cần lưu ý trước tiên là thành phố phải biết “liệu cơm gắp mắm”, nghĩa là chỉ nên tập trung vào các ngành CNVH mà Đà Nẵng sau hợp nhất có thế mạnh vượt trội. Bởi làm gì cũng phải có trọng tâm, trọng điểm, đúng hơn là phải xác định trọng tâm, trọng điểm phù hợp với tiềm năng, lợi thế của địa phương; nếu không thì sẽ phát triển theo kiểu “vỏ mít” – chỗ nào cũng nhọn và do vậy không tạo được khác biệt trong cạnh tranh.
Ông Tiếng cho rằng Đà Nẵng có tiềm năng và thế mạnh ở 4 lĩnh vực mà Bộ VH-TT&DL đề xuất là điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa và thủ công mỹ nghệ. Đây là 4 ngành CNVH sớm được xác định ưu tiên từ danh mục 12 ngành năm 2016 và vẫn tiếp tục được xác định ưu tiên trong danh mục 10 ngành năm 2025. Điều cần lưu ý là từ “công nghiệp” trong cụm từ “công nghiệp văn hóa” cũng giống như từ “công nghiệp” trong cụm từ “công nghiệp không khói” để định danh ngành du lịch. CNVH cũng là một loại công nghiệp “không khói”, không sản xuất đồng loạt theo một khuôn mẫu nhất định, luôn đề cao sự khác biệt. Sản phẩm của các ngành CNVH phải thực sự là tác phẩm, in đậm dấu vân tay sáng tạo của từng nghệ sĩ, từng nghệ nhân, từng tác giả kịch bản, từng nhà thiết kế, cũng như in đậm đặc trưng văn hóa của từng điểm đến trong du lịch văn hóa. Ông Tiếng dẫn chứng nghề thủ công mỹ nghệ như làng nghề điêu khắc đá mỹ nghệ Non Nước cần phải khắc phục tình trạng sản xuất hàng loạt những sản phẩm tượng đá mang tính thương mại hóa hoặc sản xuất kiểu công nghiệp những sản phẩm tượng bột đá chứ không phải tượng đá, dẫn đến ngày càng ít đi những sản phẩm tượng thủ công.
Với hai ngành điện ảnh và nghệ thuật biểu diễn, ông Tiếng nói về 3 cấp độ tham gia vào ngành điện ảnh. Cấp độ cao là tự mình sáng tạo nên những sản phẩm điện ảnh đủ sức trực tiếp cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Cấp độ thấp hơn là góp phần vào quá trình sáng tạo sản phẩm điện ảnh của địa phương khác hay của nước khác, như trở thành phim trường. Ở cấp độ thấp hơn nữa là chỉ có thể đảm nhận vai trò thị trường tiêu thụ các sản phẩm điện ảnh. Vì vậy, Đà Nẵng cần phải vượt qua “điểm nghẽn” ở cả ba cấp độ.
Ở cấp độ cao, Đà Nẵng vốn không có thế mạnh về sáng tác kịch bản phim truyện cũng như diễn xuất phim truyện. Ở cấp độ thấp hơn, nhiều nhà sản xuất phim đến từ Hà Nội, TP Hồ Chí Minh mong muốn Đà Nẵng sớm thành lập một đơn vị sự nghiệp chuyên cung ứng dịch vụ công để hỗ trợ hiệu quả các đoàn làm phim tiếp cận kịp thời các phim trường ở Đà Nẵng nhằm rút ngắn thời gian, tiết kiệm kinh phí. Ở cấp độ thấp hơn nữa, điện ảnh Đà Nẵng vẫn gặp khó khăn về khán giả, nhất là đối với phim truyện chiếu rạp có chiều sâu tư tưởng, giá trị nghệ thuật và khả năng lay động lòng người. Những “điểm nghẽn” này cũng bộc lộ trong quá trình phát triển ngành CNVH trên lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn gắn với 2 di sản văn hóa phi vật thể quốc gia là Nghệ thuật Tuồng xứ Quảng và Nghệ thuật hô/hát bài chòi dân gian.
“Vì vậy, 4 ngành CNVH được Đà Nẵng xác định ưu tiên chỉ có thể trở nên bền vững khi dựa trên nền tảng của cả ba tính chất: dân tộc – khoa học – đại chúng” – ông Bùi Văn Tiếng nhấn mạnh, đồng thời lưu ý thêm về mối quan hệ giữa 3 ngành CNVH điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn và thủ công mỹ nghệ với ngành CNVH du lịch văn hóa. Muốn phát triển du lịch văn hóa, cần phải có tài nguyên văn hóa và nguồn tài nguyên ấy chính là các sản phẩm, tác phẩm điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn và thủ công mỹ nghệ.
Cũng liên quan đến việc lựa chọn có trọng điểm, ở góc nhìn khác, nhà nghiên cứu Hồ Xuân Tịnh (Hội Di sản Văn hóa Đà Nẵng) gợi mở hướng khai thác và phát huy giá trị di sản trong phát triển CNVH tại Đà Nẵng. Cụ thể, Đà Nẵng cần tập trung phát triển du lịch văn hóa – trải nghiệm như tổ chức “Phố nghệ thuật truyền thống” ở khu vực chợ đêm, phố đi bộ ven sông Hàn; “Không gian văn hóa biển” tại các bãi biển Mỹ Khê, Mân Thái, Thọ Quang; mô hình biểu diễn tương tác; tổ chức tour trải nghiệm để du khách thử làm gốm Thanh Hà v.v...
Đặc biệt, nhà nghiên cứu Hồ Xuân Tịnh đề cập hướng Đà Nẵng nên sản xuất phim lịch sử, hoạt hình lấy cảm hứng từ chất liệu lịch sử, văn hóa địa phương bởi điện ảnh được xác định là một trong các ngành văn hóa được thành phố lựa chọn. Theo ông Tịnh, Đà Nẵng có nhiều đề tài như sự hình thành và phát triển của đô thị thương cảng cổ Hội An; các nhân vật lịch sử đất Quảng gắn với phong trào Nghĩa Hội Quảng Nam, phong trào Duy Tân; cuộc kháng chiến của quân dân Quảng Nam – Đà Nẵng chống quân Pháp xâm lược giai đoạn 1858 – 1860; và đề tài chiến tranh cách mạng rất phong phú.“Di sản văn hóa Đà Nẵng là nguồn lực, là tài nguyên cho phát triển kinh tế sáng tạo và xây dựng bản sắc văn hóa đô thị. Phát huy giá trị di sản trong CNVH đòi hỏi phải có một chiến lược bảo tồn - phát huy - sáng tạo cân bằng. Khi di sản văn hóa thật sự trở thành nguồn lực để phát triển kinh tế, các giá trị văn hóa sẽ được bảo tồn và lan tỏa rộng rãi; bản sắc văn hóa Đà Nẵng được khẳng định bền vững trong dòng chảy toàn cầu” – ông Tịnh nhấn mạnh.
Xuân Tiến