Cơ sở hạ tầng miền núi còn nhiều hạn chế
Đến xã Tây Giang - một trong những địa bàn miền núi của TP Đà Nẵng có thể thấy nhiều đổi thay so với trước. Đồng chí Bhling Mia, Thành ủy viên, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch HĐND xã Tây Giang cho biết: “Thời gian qua, việc triển khai các chương trình mục tiêu quốc gia, đặc biệt là Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đã làm thay đổi rõ rệt diện mạo nông thôn miền núi; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày càng cải thiện… Tuy nhiên, Tây Giang vẫn đối diện với nhiều khó khăn, thách thức, nhất là kết cấu hạ tầng thiếu bền vững, thiên tai, bão lũ thường xuyên xảy ra, tỷ lệ hộ nghèo cao…”.
Quang cảnh thành phố Đà Nẵng nhìn từ trên cao. Ảnh: THÀNH NAM
Đồng chí Trần Thị Thanh Tâm, Thành ủy viên, Giám đốc Sở Tài chính TP Đà Nẵng nhìn nhận: Tình hình phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi có sự thay đổi nhưng vẫn còn chậm so với mặt bằng chung của thành phố. Cơ sở hạ tầng còn yếu kém, hệ thống giao thông đi lại khó khăn. Một số tuyến giao thông chính từ đồng bằng lên miền núi còn nhỏ hẹp, xuống cấp, hư hỏng gây cản trở lớn cho sự phát triển, ảnh hưởng đến việc giao thông hằng ngày và lưu thông hàng hóa…
Theo Sở Xây dựng TP Đà Nẵng, sau khi sáp nhập, thành phố có diện tích 11.867,18 km2, quy mô dân số hơn 3 triệu người, được định hình gồm 2 vùng: Vùng Đông và vùng Tây. Vùng Đông gồm TP Đà Nẵng (cũ) và 9 thành phố, thị xã, huyện phía Đông tỉnh Quảng Nam cũ (diện tích chiếm gần 35%; dân số chiếm hơn 90%). Vùng Tây bao gồm các xã miền núi phía Tây (diện tích chiếm khoảng 65%; dân số chỉ chiếm hơn 10%). Đặc điểm lớn nhất của vùng Tây là quỹ đất; tuy nhiên, đa phần là địa hình đồi núi (hơn 80% diện tích), không thuận lợi để phát triển các khu chức năng mới; địa hình chia cắt, khó khăn về hạ tầng kết nối; giao thông lớn chủ yếu theo kết nối Đông - Tây. Đặc biệt, sự khó khăn trong kết nối hạ tầng dẫn đến nhiều khó khăn khác…
Phát triển hài hòa giữa miền núi và đồng bằng
Để rút ngắn khoảng cách chênh lệch về kinh tế - xã hội giữa miền núi và khu vực đồng bằng, đồng chí Trần Thị Thanh Tâm, đề xuất thành phố thực hiện rà soát, hoàn thiện quy hoạch, kế hoạch liên quan đến khu vực miền núi theo mô hình chính quyền địa phương 2 cấp; tập trung điều chỉnh, bổ sung hoàn thiện các quy hoạch sắp xếp, bố trí dân cư phù hợp với tình hình thực tiễn, đảm bảo thích ứng với phòng, chống thiên tai, xây dựng mô hình các làng định cư ở khu vực miền núi, biên giới; kịp thời đầu tư, nâng cấp hệ thống hạ tầng giao thông huyết mạch để kết nối vùng Tây với vùng Đông…
Khu vực phía Đông phát huy vai trò là vùng có các đô thị thương hiệu mang tầm quốc tế và khu vực, tạo ra động lực, các cơ sở kinh tế kỹ thuật phát triển cho đô thị. Trong ảnh: Phố cổ Hội An thu hút đông đảo du khách trong nước và quốc tế. Ảnh: THÀNH NAM
Trên cơ sở phân tích những khó khăn trong kết nối hạ tầng, để phát triển cân bằng giữa miền núi và đồng bằng, thích ứng với biến đổi khí hậu, đồng chí Nguyễn Hà Nam, Giám đốc Sở Xây dựng TP Đà Nẵng cho rằng: Trước tiên cần giải quyết cơ bản hạ tầng để tối ưu và nâng cao năng lực liên kết, đồng bộ nhằm phát triển vùng Đông - vùng động lực, lan tỏa phát triển về vùng Tây; kéo ngắn khoảng cách đồng bằng - miền núi và giải quyết tổng thể các vấn đề về môi trường.
Theo đó, giai đoạn đến năm 2030, vùng Đông cần tập trung hoàn chỉnh quy hoạch, thể chế; định hình các khung liên kết hạ tầng thông minh; đầu tư hạ tầng số; rút ngắn toàn bộ thời gian di chuyển, kết nối giữa các nút (ước lượng tối đa khoảng 1 giờ 30 phút từ sân bay Đà Nẵng với sân Bay Chu Lai). Vùng Tây tập trung đầu tư, nâng cấp hoàn chỉnh, thông suốt các trục kết nối vùng Đông về vùng Tây, là các hành lang phát triển, hành lang đô thị hóa.
Giai đoạn đến năm 2035, vùng Đông vận hành đồng bộ các khung hạ tầng liên kết: Tuyến đường sắt đô thị; các tuyến xe buýt nhanh; tăng tốc độ và khả năng lưu chuyển hàng hóa trên các tuyến quốc lộ kết nối vùng Tây với các cảng biển hai đầu thành phố, mở rộng kết nối với các cửa ngõ Tây Nguyên và quốc tế ở phía Tây thành phố; hoàn thiện kết cấu hạ tầng sân bay Chu Lai, cảng biển Chu lai; vận hành trung tâm tài chính quốc tế...
Đối với vùng Tây, tập trung xây dựng và thu hút đầu tư các cơ sở kinh tế kỹ thuật lớn, các khu công nghiệp tại vùng Đông tiếp giáp vùng Tây, nhằm giải quyết bài toán về lao động và di dân; phát huy giá trị vùng cây nguyên liệu…
Sau năm 2035, tầm nhìn 2050, tiếp tục củng cố hệ thống hạ tầng công nghệ số thông minh để hội nhập, hợp tác ngang tầm quốc tế; tập trung nguồn lực để phát triển cân bằng cực Nam Chu Lai - Tam Kỳ và lan tỏa toàn bộ từ vùng Đông về phía Tây; kết nối khu vực đồng bằng - trung du - miền núi; hình thành các cửa ngõ phía Tây, các điểm phát triển tập trung và hệ thống các đô thị (là các thị trấn cũ) để hoàn chỉnh mô hình vùng đô thị mở, mô hình mẫu đa trung tâm - liên kết vùng - tăng trưởng xanh - công nghệ số hóa - bảo tồn văn hóa, thích ứng biến đổi khí hậu.
Sau sáp nhập, TP Đà Nẵng, từ đô thị loại I - thành phố trực thuộc Trung ương thành một hệ thống gồm 20 đô thị, trải đều trên phần diện tích của 2 vùng Đông - Tây, đa dạng về loại hình, quy mô. Do đó phát triển đô thị vừa là yêu cầu nhiệm vụ cũng vừa là hình ảnh phản ánh sự phát triển của khu vực; gắn với mục tiêu hài hòa giữa khu vực đồng bằng và miền núi, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Một góc Nhà ga hành khách quốc tế - Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng. Ảnh: THÀNH NAM
Đối với khu vực phía Đông, tiếp tục phát huy vai trò là vùng có các đô thị động lực, thương hiệu mang tầm quốc tế và khu vực, có ảnh hưởng và tác động lớn đến hệ thống đô thị quốc gia. Các đô thị được định hướng đa dạng và linh hoạt hơn về chức năng, trong đó có chức năng nổi trội, như: Đô thị Hành chính - Tài chính quốc tế (Đà Nẵng); Đô thị Du lịch - Di sản (Hội An - Duy Xuyên); Đô thị Công nghiệp - Logistics - Cảng biển - Sân bay (Tam Kỳ - Núi Thành)… để tạo ra động lực, các cơ sở kinh tế kỹ thuật phát triển cho đô thị.
Đối với khu vực phía Tây (có khoảng 10 đô thị), đều là đô thị loại V - là thị trấn của các huyện trước khi sáp nhập, đang là các trung tâm hiện hữu gắn với ranh giới hành chính đã được mở rộng tại các xã mới. Các đô thị này sẽ dẫn chuyển đổi, thích ứng với không gian mới, bao gồm phần diện tích nông thôn, nông nghiệp, khu vực tự nhiên sau sáp nhập. Về tự thân, các đô thị sẽ tập trung giải pháp nhằm hoàn chỉnh chất lượng hạ tầng, các tiêu chuẩn đô thị theo quy định, thông qua các cơ chế, đầu tư: Hoàn thiện thể chế (quy hoạch - quy chế kiến trúc); đầu tư hạ tầng khung theo quy hoạch được duyệt (tạo cơ chế mồi, thu hút các nguồn lực xã hội khác); đầu tư các không gian công cộng - hạ tầng công cộng (công viên cây xanh, các không gian lễ hội, cộng đồng…); đầu tư nâng cấp, cải tạo các không gian, khu vực đô thị hiện hữu…
Phát triển đồng bộ hạ tầng, quy hoạch và hệ thống đô thị theo hướng hài hòa Đông - Tây không chỉ giải quyết bài toán phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi mà còn tạo nền tảng cho một đô thị hiện đại, bền vững, có khả năng thích ứng biến đổi khí hậu. Đây là bước đi tất yếu để Đà Nẵng hiện thực hóa khát vọng vươn tầm khu vực, quốc tế, khẳng định vai trò một trung tâm động lực phát triển của miền Trung và cả nước.
(còn nữa)
NGUYỄN VĂN CHUNG