Theo Trung tâm Khuyến nông quốc gia, những năm gần đây, nông - lâm kết hợp ngày càng được khẳng định là một trong những mô hình sản xuất bền vững, đặc biệt phù hợp với các tỉnh trung du, miền núi phía bắc, nơi địa hình dốc, khí hậu phân hóa, đất đai dễ thoái hóa.
Ưu thế của nông - lâm kết hợp là kết hợp hài hòa giữa cây nông nghiệp, cây lâm nghiệp và chăn nuôi trên cùng một diện tích, vừa mang lại giá trị kinh tế ổn định, vừa cải thiện sinh kế, đồng thời bảo vệ tài nguyên đất, tăng độ che phủ rừng và thích ứng biến đổi khí hậu.
Thực tế từ các địa phương như Sơn La, Lai Châu, Yên Bái (cũ), Lâm Đồng (cũ)... đã cho thấy hiệu quả rõ nét khi triển khai mô hình nông - lâm kết hợp gắn với phát triển vùng nguyên liệu, cây ăn quả, cây dược liệu dưới tán rừng hoặc chăn nuôi đại gia súc kết hợp trồng rừng. Một số mô hình đã hình thành được chuỗi liên kết nông dân - hợp tác xã - doanh nghiệp (DN), từng bước hướng tới sản phẩm có truy xuất nguồn gốc, tham gia chương trình OCOP, gắn kết với hoạt động du lịch nông nghiệp, sinh thái cộng đồng.
Tại Quảng Trị, từ năm 2023, với sự hỗ trợ của Tổ chức quốc tế về bảo tồn thiên nhiên tại Việt Nam (WWF-Việt Nam), tỉnh đã thực hiện dự án cà phê nông - lâm kết hợp, với mục tiêu đến năm 2027 sẽ chuyển đổi 2.500ha cà phê độc canh sang mô hình nông lâm kết hợp và tăng thu nhập 40% cho 2.000 hộ tham gia... Sau 2 năm thực hiện, Công ty Slow Forest Coffee đã liên kết với các hộ dân, hợp tác xã (HTX), tổ hợp tác, DN thực hiện chuỗi liên kết cà phê chất lượng cao nông lâm kết hợp thông qua việc xây dựng vùng nguyên liệu với diện tích 1.000ha, chủ yếu tập trung tại xã Hướng Phùng. Hiện tại, nhiều diện tích cà phê đang phát triển tốt dưới tán cây ăn quả, cây bản địa, góp phần tăng thu nhập cho người dân.
Đánh giá mô hình - nông lâm kết hợp, bà Nguyễn Hồng Phương - Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Quảng Trị cho biết, trong bối cảnh thị trường trong nước và quốc tế đang siết chặt các quy định về nguồn gốc sản phẩm, việc tỉnh triển khai đề án tái canh và phát triển cây cà phê theo hướng sinh thái, hữu cơ và nông - lâm kết hợp là hết sức cần thiết. Cách làm này đang từng bước đáp ứng các quy định của EU về chống phá rừng và lộ trình cam kết giảm phát thải khí nhà kính. Đây cũng là mục tiêu hướng tới một hệ sinh thái cà phê Quảng Trị bền vững, gắn với tín chỉ carbon trong tương lai.
Theo TS Phạm Hữu Thương, đại diện Tổ chức Nghiên cứu Nông lâm quốc tế tại Việt Nam (ICRAF), mô hình nông - lâm kết hợp là giải pháp có lợi cho cả môi trường và kinh tế, song vẫn còn rào cản trong việc nhân rộng, do chi phí đầu tư ban đầu cao, nông dân còn e ngại vì lợi ích chưa thấy rõ trong ngắn hạn, trong khi liên kết tiêu thụ còn yếu.
TS Lưu Ngọc Quyến (Viện Khoa học kỹ thuật Nông lâm nghiệp miền núi phía bắc) cũng cho rằng, trước tác động ngày càng rõ của biến đổi khí hậu (hạn hán, lũ quét, băng giá...), nông - lâm kết hợp được xem là giải pháp tối ưu để phát triển sản xuất nông nghiệp trên đất dốc một cách bền vững và linh hoạt.
Hiệu quả đem lại từ mô hình nông - lâm kết hợp thấy rõ nhưng theo từ thực tế cũng cho thấy việc triển khai vẫn ở phạm vi hẹp. Nguyên nhân do thiếu nguồn lực. Theo các chuyên gia dù đã có rất nhiều đề án theo lĩnh vực liên quan đến từng phần của hệ sinh thái nông nghiệp, như đất đai, bảo vệ thực vật, đa dạng sinh học… Song lại thiếu một đề án tổng thể mang tầm quốc gia để thúc đẩy nông nghiệp sinh thái.
Theo PGS.TS. Đào Thế Anh, Chủ tịch Hội Khoa học phát triển nông thôn Việt Nam, cần có các chương trình tín dụng để hỗ trợ nông dân phát triển nông nghiệp sinh thái, như tín dụng xanh và phải được thiết kế để phù hợp với các hộ nông dân nhỏ. Bên cạnh đó việc ứng dụng công nghệ số để minh bạch hóa nguồn gốc xuất xứ, chất lượng...
“Nông nghiệp sinh thái sẽ khó phát triển nếu sản phẩm không được người tiêu dùng đón nhận. Do vậy, cần đẩy mạnh công tác truyền thông về nông nghiệp sinh thái, lợi ích của sản phẩm nông nghiệp sinh thái để tạo niềm tin tiêu dùng” - ông Đào Thế Anh nhấn mạnh.
Lê Bảo