Góp thêm góc nhìn thực tế cho câu chuyện này, Hànôịmới Cuối tuần đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Nguyễn Văn Hiệu - Hiệu trưởng Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật, Đại học Quốc gia Hà Nội - xung quanh vấn đề đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực văn hóa sáng tạo gắn với thực tiễn, đặc biệt trong bối cảnh Hà Nội đang là thành viên của Mạng lưới thành phố sáng tạo của UNESCO.
Từ triết lý giáo dục
- Thưa PGS.TS Nguyễn Văn Hiệu, gần đây, trong nhiều sự kiện văn hóa - sáng tạo tại Hà Nội, dễ nhận thấy sự hiện diện tích cực của các thầy cô thuộc Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật với vai trò hướng dẫn, cố vấn chuyên môn. Đây hẳn là kết quả từ một chiến lược dài hạn trong việc xây dựng đội ngũ chuyên gia phục vụ cho triết lý giáo dục của Nhà trường?
- Đúng như nhận xét của nhà báo, sự hiện diện của đội ngũ giảng viên nhà trường trong các sự kiện văn hóa - sáng tạo tại Hà Nội không phải là ngẫu nhiên, mà là kết quả của một quá trình phát triển có chiến lược, gắn chặt với triết lý giáo dục của Nhà trường trong lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật gắn với thực tiễn xã hội.
Chúng tôi luôn định hướng rõ việc đào tạo, nghiên cứu và thực hành phải đặt trong mối liên hệ mật thiết với đời sống xã hội. Nhà trường đã thu hút được một lực lượng chuyên gia liên ngành - từ nghệ sĩ, nhà nghiên cứu, nhà thiết kế, nhà quản lý văn hóa - những người vừa có tư duy hàn lâm, vừa có khả năng dẫn dắt và tạo ảnh hưởng trong các không gian sáng tạo công cộng và dự án xã hội.
- Tôi nhớ, từ khi trường còn là Khoa Các khoa học liên ngành, bản thân ông là một trong những người trực tiếp kiến tạo mô hình đào tạo liên ngành?
- Vâng, mô hình này không đơn thuần là một lựa chọn mang tính học thuật, mà xuất phát từ chính yêu cầu thực tiễn của xã hội và xu hướng phát triển của đất nước. Ngay từ khi còn là Khoa Các khoa học liên ngành, chúng tôi đã xác định, để đào tạo ra nguồn nhân lực có khả năng thích ứng với bối cảnh mới, cần phải phá bỏ ranh giới cứng nhắc giữa các lĩnh vực, tạo ra một không gian học thuật mở, nơi người học có thể tích hợp kiến thức từ nhiều ngành khác nhau để hiểu và giải quyết các vấn đề phức hợp.
- Từ triết lý giáo dục đến việc triển khai chương trình cụ thể là cả một câu chuyện dài, thách thức. Tính liên ngành, liên lĩnh vực được thể hiện thế nào trong chương trình đào tạo, thưa ông?
- Tại Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật, cách tiếp cận liên ngành được hiện thực hóa rõ nét trong từng chương trình đào tạo. Ví dụ, một sinh viên theo học thiết kế sáng tạo không chỉ học về mỹ thuật ứng dụng, mà còn được tiếp cận các kiến thức về văn hóa, công nghệ số, truyền thông và quản trị. Sinh viên ngành Di sản không chỉ nghiên cứu lý thuyết, mà còn tham gia thực địa, xây dựng sản phẩm trải nghiệm, làm việc với cộng đồng, có kiến thức về truyền thông và chiến lược xây dựng thương hiệu... Tất cả những cấu phần này đều hướng tới mục tiêu đào tạo một thế hệ nhân lực sáng tạo mới - có khả năng làm việc trong môi trường phức hợp, tạo ra giá trị gia tăng từ tri thức văn hóa và nghệ thuật.
Đến chất lượng nhân lực
- Và điều này có liên quan trực tiếp đến việc đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ mục tiêu phát triển công nghiệp hóa và rộng ra là đóng góp vào nền kinh tế sáng tạo - một xu thế được xem là động lực mới cho phát triển bền vững?
- Chính trong bối cảnh các ngành công nghiệp văn hóa - sáng tạo đang trở thành một động lực mới cho phát triển bền vững, tư duy liên ngành không còn là một khái niệm xa lạ, mà đã trở thành yêu cầu cấp thiết. Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn 2045 do Chính phủ phê duyệt đã khẳng định rõ mục tiêu xây dựng ngành công nghiệp văn hóa thành một ngành kinh tế quan trọng, gắn với phát huy bản sắc dân tộc và hội nhập quốc tế.
Và kinh tế sáng tạo, với trọng tâm là công nghiệp văn hóa, đang được thừa nhận rộng rãi như một trong những động lực tăng trưởng mới, có khả năng tạo ra giá trị gia tăng cao, đóng góp vào phát triển bền vững và xây dựng thương hiệu quốc gia. Song, để phát triển được lĩnh vực này, yếu tố then chốt chính là nguồn nhân lực.
Mô hình đào tạo liên ngành của Trường Khoa học Liên ngành và Nghệ thuật được thiết kế để hướng tới việc hình thành một thế hệ lao động sáng tạo mới. Những sinh viên tốt nghiệp sẽ không đơn thuần là nghệ sĩ hay nhà thiết kế, mà thực sự là những cá nhân có khả năng kết nối giữa nghệ thuật, công nghệ, quản trị và xã hội. Họ có thể làm việc trong các không gian sáng tạo, các tổ chức văn hóa, các doanh nghiệp khởi nghiệp về công nghiệp sáng tạo cũng như tham gia vào hoạch định chính sách văn hóa và phát triển cộng đồng.
Cụ thể, người học sẽ có các năng lực nổi bật như tư duy sáng tạo - thiết kế, kỹ năng xây dựng sản phẩm/dịch vụ văn hóa, khả năng làm việc đa lĩnh vực, tiếp cận thị trường từ góc nhìn bản địa kết hợp với toàn cầu, và đặc biệt là khả năng truyền thông - kết nối - lan tỏa giá trị sáng tạo. Những phẩm chất này giúp họ vừa đáp ứng nhu cầu lao động hiện đại, vừa góp phần kiến tạo hệ sinh thái sáng tạo tại các đô thị, vùng di sản hay cộng đồng nông thôn, nơi mà văn hóa có thể trở thành nguồn lực phát triển quan trọng.
Nói cách khác, mô hình đào tạo liên ngành không chỉ tạo ra nguồn nhân lực “có việc làm”, mà quan trọng hơn là “có khả năng tạo việc làm”, “tạo giá trị mới”, trở thành mắt xích không thể thiếu trong nền kinh tế tri thức và sáng tạo mà Việt Nam đang từng bước hướng tới.
- Vâng, mong muốn là vậy, song từ thực tế sinh động trong các mô hình hợp tác công tư mà thầy và trò của Trường đã tham gia như Tour đêm Quán Thánh chẳng hạn..., ông có đánh giá gì về hiệu quả, cũng như bài học rút ra từ mô hình hợp tác này?
- Quả thật đây là một câu chuyện dài, còn nói ngắn gọn thì chúng tôi nhận thấy hai bài học rõ rệt.
Thứ nhất, mô hình hợp tác công - tư trong lĩnh vực văn hóa - du lịch chỉ có thể bền vững khi có sự tham gia thực chất của các bên, trong đó giáo dục đóng vai trò cầu nối giữa tri thức và ứng dụng. Thứ hai, để chuyển hóa các giá trị văn hóa thành sản phẩm có sức sống với công chúng, cần một đội ngũ chuyên gia vừa am hiểu di sản, vừa có tư duy thiết kế trải nghiệm và năng lực truyền thông sáng tạo - những yếu tố mà chúng tôi luôn chú trọng trong đào tạo.
Các kết quả bước đầu cho thấy, việc đưa sinh viên, giảng viên cùng cộng đồng và doanh nghiệp vào cùng một dự án đã tạo ra những giá trị vượt ngoài kỳ vọng ban đầu, ngoài việc đem đến sản phẩm cụ thể, là quá trình hình thành năng lực làm việc liên ngành, tư duy theo chuỗi và tinh thần trách nhiệm xã hội của người học.
- Ông từng nhấn mạnh rằng, chúng ta đang kế thừa một di sản giáo dục nghệ thuật vô giá. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc bảo tồn và phát huy bền vững di sản này vẫn còn không ít trở ngại?
- Đúng vậy, chúng ta đang kế thừa một di sản giáo dục nghệ thuật vô giá - với nền tảng đặt ra từ nền giáo dục nghệ thuật đầu thế kỷ XX, thời điểm khởi đầu cho mô hình đào tạo nghệ thuật mang tinh thần tự do, kết hợp Đông - Tây, lý thuyết - thực hành, sáng tác - nghiên cứu. Tuy nhiên, việc bảo tồn và phát huy di sản đó trong bối cảnh hiện nay đang đứng trước nhiều rào cản.
Trở ngại lớn nhất, theo tôi, nằm ở sự hiểu chưa đầy đủ về bản chất của giáo dục nghệ thuật. Học nghệ thuật không chỉ là học kỹ thuật, mà là một quá trình rèn luyện tư duy, tri thức và nhân cách. Đó là sự kết hợp giữa sáng tạo và học thuật, giữa cảm xúc nghệ sĩ và nền tảng lý luận, để từ đó tạo ra những tác phẩm không chỉ đẹp về hình thức mà còn có chiều sâu ý nghĩa và sức lan tỏa tới cộng đồng. Một nền giáo dục nghệ thuật đúng nghĩa phải giúp người học hình thành tình yêu văn hóa, năng lực cảm thụ thẩm mỹ, khả năng vượt qua khuôn mẫu, và trên hết là phẩm cách.
Vì thế, phát huy di sản giáo dục nghệ thuật không đơn thuần là bảo tồn mô hình cũ, mà là làm mới tinh thần của nó trong bối cảnh hiện tại.
Chúng tôi xác định rõ văn hóa sáng tạo còn hơn cả một lĩnh vực, văn hóa sáng tạo là một cách tư duy - tích hợp, cởi mở và bền bỉ. Văn hóa sáng tạo, suy cho cùng, không thuần túy nằm trong sách vở, mà bắt đầu từ chính cách chúng ta sống, học và kiến tạo lại thế giới xung quanh mình mỗi ngày.
- Xin trân trọng cảm ơn PGS.TS Nguyễn Văn Hiệu.
Hải Giang thực hiện