Hình phạt tử hình: Cần có lộ trình giảm dần

Hình phạt tử hình: Cần có lộ trình giảm dần
14 giờ trướcBài gốc
Hình phạt tử hình từ lâu đã được xem là biện pháp chế tài nghiêm khắc nhất trong hệ thống pháp luật Việt Nam, nhằm trừng trị các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tuy nhiên, trong bối cảnh cải cách tư pháp nước ta và xu hướng nhân đạo hóa hình phạt trên thế giới, vấn đề duy trì hay loại bỏ án tử hình đang trở thành một chủ đề gây nhiều tranh cãi.
Xóa bỏ hình phạt tử hình có thực sự làm giảm hiệu quả răn đe tội phạm hay không? Việc duy trì án tử có đảm bảo tính công bằng và thống nhất trong hệ thống pháp luật? Bài viết này phân tích thực trạng, xu hướng cải cách và đề xuất lộ trình phù hợp cho pháp luật hình sự Việt Nam.
Tiếp tục duy trì hình phạt tử hình nhưng theo lộ trình giảm dần
Trên thế giới, ngày càng có nhiều quốc gia xóa bỏ hình phạt tử hình. Theo Tổ chức Ân xá Quốc tế, tính đến năm 2024, hơn 70% quốc gia đã xóa bỏ hoặc không còn thực thi án tử. Việt Nam cũng đang từng bước giảm bớt phạm vi áp dụng hình phạt này.Bộ luật Hình sự 1999 quy định 44 tội danh có mức hình phạt cao nhất là tử hình. Đến Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), con số này giảm xuống còn 18. Đây là một bước tiến đáng kể trong quá trình nhân đạo hóa pháp luật hình sự.
Quang cảnh một phiên tòa hình sự tại TAND TP.HCM. Ảnh: HOÀNG GIANG
Có quan điểm cho rằng cần áp dụng hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam: Đây là biện pháp bảo vệ xã hội khỏi những tội phạm đặc biệt nguy hiểm bằng cách loại vĩnh viễn ra khỏi đời sống xã hội đối với chủ thể vi phạm tội, ngăn chặn chủ thể này có cơ hội tiếp tục phạm tội. Có tác dụng răn đe mạnh mẽ, mang tính phòng ngừa. Đảm bảo tính công lý cho nạn nhân và gia đình của người bị hại khi bị hành vi phạm tội gây ra tổn thất không thể bù đắp. Hình phạt này phù hợp với truyền thống pháp luật, phù hợp với tình hình tội phạm thực tế.
Quan điểm khác lại cho rằng cần xóa bỏ án tử hình ra khỏi pháp luật hình sự Việt Nam: Thực tế nhiều quốc gia xóa bỏ án tử hình, tuy nhiên vẫn kiểm soát được tình hình phạm tội. Án tử hình có thể dẫn đến oan sai, khi thi hành án tử hình rồi thì không có thể khắc phục được, ngoài ra việc khẳng định tính răn đe hiệu quả hơn chung thân, chung thân cũng đáp ứng được ngăn chặn chủ thể có cơ hội tiếp tục phạm tội.
Tôi cho rằng Việt Nam cần tiếp tục duy trì hình phạt tử hình nhưng theo lộ trình giảm dần, tiến tới xóa bỏ đối với một số tội danh không còn phù hợp. Việc điều chỉnh này cần dựa trên các tiêu chí như: Mức độ nguy hiểm của tội phạm và tầm quan trọng của khách thể bị xâm phạm; áp lực từ tình hình tội phạm thực tế; khả năng khắc phục hậu quả của tội phạm; quan điểm nhân đạo và các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết; trách nhiệm của các cơ quan quản lý trong việc phòng chống tội phạm.
Khi nghiên cứu các quy định về hình phạt tử hình, tôi thấy một số quy định còn những điểm hạn chế cần được thay đổi để phù hợp với thực tế; nhằm hướng đến một hệ thống pháp luật công bằng, nhân đạo và phù hợp với xu hướng toàn cầu. Trên cơ sở tiêu chí nêu trên, tác giả kiến nghị xóa bỏ hình phạt tử hình đối 3 tội. Đó là: tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 194 BLHS); Tội tham ô tài sản (Điều 353) và Tội nhận hối lộ (Điều 354).
Bỏ hình phạt tử hình đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh
Có thể thấy hành vi sản xuất, buôn bán mặt hàng thuốc chữa bệnh, phòng bệnh mục đích là lợi nhuận kinh tế, mặc dù thuốc giả có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng. Tuy nhiên người sản xuất, buôn bán không có mục đích giết người, trong nhiều trường hợp, hậu quả gây chết người có thể sử dụng sai liều lượng hoặc sự kém hiệu quả của thuốc, chứ không phải là hành vi cố ý giết người, đây là đặc điểm khác với các tội danh khác như Giết người hay khủng bố.
Xu hướng quốc tế và triển vọng cải cách pháp luật hình sự Việt Nam
Việc bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội danh không làm giảm hiệu quả răn đe mà còn giúp tăng tính công bằng, thống nhất trong hệ thống pháp luật. Đây là một bước tiến quan trọng trong cải cách tư pháp, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam.
Cải cách này không chỉ thể hiện tinh thần nhân đạo của pháp luật mà còn giúp đảm bảo tính thực tiễn và hiệu quả trong phòng, chống tội phạm.
ThS DIỆP XUÂN HÀ
Việc áp dụng hình phạt tử hình dẫn đến sự mất công bằng, nhất quán trong Bộ luật hình sự: “Tội tham ô tài sản”; “Tội nhận hối lộ” tuy mức độ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, có hậu quả lớn đối với xã hội, kinh tế, nhưng vẫn có thể được miễn tử hình nếu khắc phục được 3/4 hậu quả theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 40 Bộ luật hình sự 2015. Trong khi đó, tội sản xuất, buôn bán thuốc giả không phải lúc nào cũng có hậu quả chết người, nhưng vẫn bị áp dụng hình phạt tử hình, tạo nên sự không tương thích, mất cân đối trong các chế tài được quy định trong bộ luật hình sự. Bên cạnh đó Bộ luật hình sự 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009, thì hành vi “Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh” với hành vi “Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm” được quy định chung tại Điều 157, hình phạt cao nhất là tử hình. Bộ luật hình sự hiện hành chúng ta chỉ áp dụng mức cao nhất là chung thân đối với hành vi “Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm” theo quy định tại Điều 193.
Xét về thực tế “Thuốc” với “Thực phẩm” đều là những mặt hàng thiết yếu, chất lượng của nó ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của con người. Xét về thực tiễn chủ thể, khách thể, hành vi vi phạm của tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm” nhiều hơn, khó quản lý hơn, hậu quả thiệt hại lớn hơn so với tội “Buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh”.
Về hiệu quả răn đe chưa phù hợp, có thể thấy hình phạt tử hình không thực sự hiệu quả trong việc răn đe với loại tội phạm này, vì thực tiễn xét xử Việt Nam chúng ta chưa có một bị cáo nào bị áp dụng mức tử hình. Quan trọng hơn đối với loại tội phạm này là phải tập trung kiểm soát chặt chẽ thị trường dược phẩm và tăng cường trách nhiệm của cơ quan quản lý sẽ ngăn chặn hành vi sản xuất, buôn bán thuốc giả từ gốc rễ. Nếu chúng ta chỉ tập trung vào hình phạt mà không có biện pháp phòng ngừa, tội phạm này vẫn có thể xảy ra.
Vì vậy, chỉ cần áp dụng mức phạt cao nhất là chung thân cũng đủ sức để răn đe, đấu tranh, phòng ngừa nhưng vẫn thể hiện được chính sách nhân đạo, công bằng của nhà nước ta.
Bỏ hình phạt tử hình đối với Điều 353 và Điều 354 BLHS 2015
Hình phạt tử hình đối với tội Tham ô tài sản (Điều 353) và Tội nhận hối lộ (Điều 354 ) được áp dụng, trên thực tế tạo ra tác động tiêu cực, kém hiệu quả đối với quá trình điều tra và xử lý, thu hồi tài sản đối với hành vi tham nhũng. Chủ thể của tham nhũng là những người có chức vụ, quyền hạn, sau khi thực hiện hành vi, nhận thấy có cơ sở đối mặt với “án tử” từ góc độ tâm lý học, họ sẽ luôn có xu hướng tìm mọi cách để che giấu, tiêu hủy những chứng cứ chứng minh cho hành vi phạm tội, bịt miệng, mua chuộc, đe dọa, thậm chí thủ tiêu nhân chứng, hối lộ và biết mình không thoát án tử họ sẽ không hợp tác điều tra, không cung cấp thông tin những người liên quan, tài sản thu lợi bất chính. Do đó, khi hình phạt được giảm xuống chung thân người phạm tội có động lực để cung cấp các thông tin phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử.
Bỏ hình phạt tử hình sẽ thuận lợi cho khả năng thu hồi được tài sản tham những, có cơ sở cho việc khắc phục hậu quả thiệt hại gây ra. Mục đích quan trọng nhất trong việc xử lý loại tội phạm này là thu hồi tài sản tham nhũng, giảm thiệt hại cho nhà nước, xã hội, khi biết mình không thể thoát được “án tử”, người phạm tội cố gắng tẩu tán tài sản theo xu hướng “hy sinh đời bố, củng cố đời con” bằng con đường nhờ người khác đứng tên tài sản hay chuyển tiền ra nước ngoài, tích trữ đô la, vàng…không có động lực để khai báo. Như vậy, có thể không đạt được mục đích quan trọng nhất nêu trên.
Việc bỏ án tử hình với tội tham nhũng cũng giúp tăng khả năng dẫn độ tội phạm từ các quốc gia không còn áp dụng hình phạt này, đặc biệt là các nước châu Âu. Hiện nay, các nước như Đức, Pháp hay Anh từ chối dẫn độ nghi phạm đến các quốc gia có áp dụng án tử hình, điều này tạo ra kẽ hở pháp lý cho tội phạm tham nhũng trốn ra nước ngoài.
Đặc biệt, xét về tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, trong nhóm 7 điều luật quy định về tội phạm tham nhũng, chỉ có hai điều "Tội tham ô tài sản" và "Tội nhận hối lộ" áp dụng mức án tử hình. Các tội danh khác như "Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản" (Điều 355) hay "Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi" (Điều 358) chỉ có mức phạt tối đa là chung thân. Điều này tạo ra sự bất hợp lý và cần được sửa đổi để đảm bảo tính thống nhất trong chính sách hình sự, cụ thể:
Điều 353 “Tội tham ô tài sản” tại Khoản 4 hình phạt cao nhất tử hình được áp dụng khi “gây thiệt hại từ 5.000.000.000đ trở lên”;
Điều 354 “Tội nhận hối lộ” tại Khoản 4 hình phạt cao nhất tử hình được áp dụng khi “gây thiệt hại từ 5.000.000.000đ trở lên”;
Điều 355 “Tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” tại Khoản 3 hình phạt cao nhất là chung thân, được áp dụng “gây thiệt hại từ 5.000.000.000đ trở lên”;
Điều 356 “Tội lợi dụng chức vụ, quyền trong khi thi hành công vụ” tại Khoản 4 hình phạt cao nhất 15 năm tù được áp dụng khi “gây thiệt hại từ 1.000.000.000đ trở lên”;
Điều 357 “Tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ” tại Khoản 4 hình phạt cao nhất 20 năm được áp dụng “gây thiệt hại từ khi 1.500.000.000đ trở lên”;
Điều 358 “Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi” tại Khoản 4 hình phạt cao nhất tử hình được áp dụng khi “gây thiệt hại từ 5.000.000.000đ trở lên”;
Đặc điểm chung của nhóm tội này có chủ thể là người có chức vụ, thực hiện hành vi phạm tội, và có mức hình phạt cao nhất trên cơ sở xác định thiệt hại gây ra, sự chênh lệch thiệt hại nhà làm luật đưa ra không lớn, nhưng chỉ có “Tội tham ô tài sản” và “Tội nhận hối lộ” áp dụng hình phạt cao nhất là tử hình là chưa đồng bộ.
ThS DIỆP XUÂN HÀ, thẩm phán TAND huyện Củ Chi
Nguồn PLO : https://plo.vn/hinh-phat-tu-hinh-can-co-lo-trinh-giam-dan-post838539.html