Trong khi Không quân Hoàng gia Anh (RAF) đã quá quen với việc điều động tiêm kích để đánh chặn các chiến đấu cơ và oanh tạc cơ Đức từ lục địa châu Âu, thì mối đe dọa lần này lại hoàn toàn khác biệt: nó không có phi công.
Máy bay không người lái đầu tiên trong lịch sử
Được những người chứng kiến bối rối gọi là “chiếc máy bay không người lái”, nó có cánh, động cơ phản lực và mang theo một đầu đạn có sức công phá khủng khiếp. Đặc điểm đáng sợ là động cơ của nó sẽ tắt giữa không trung trước khi lao xuống mục tiêu. Nó được lập trình để tự dẫn đường.
Máy bay không người lái đầu tiên trong chiến tranh chính quả những quả bom bay
Đó chính là Fieseler Fi 103, hay Vergeltungswaffe 1, thường được biết đến với cái tên V-1 “bom bay” – và thường được gọi là quả tên lửa hành trình đầu tiên trong lịch sử. Nhưng nếu dùng thuật ngữ ngày nay, chính xác hơn nó là một loại “phương tiện bay không người lái” (UAV) – và thậm chí có thể coi như mẫu “drone cảm tử” đầu tiên.
Giống như UAV hiện đại, V-1 rẻ để sản xuất và dễ lắp ráp. Chính sự rẻ tiền ấy, cộng thêm mức độ hủy diệt và nỗi sợ hãi nó gieo rắc, đã khiến Đệ tam Đế chế lựa chọn đầu tư sản xuất loại vũ khí này khi cuộc chiến ngày càng lún sâu.
Trong bối cảnh thiếu hụt nhân lực, nền kinh tế kiệt quệ vì chiến tranh và tinh thần dân chúng ngày càng suy sụp, khả năng duy trì cuộc chiến của Đức suy yếu trầm trọng. Adolf Hitler hy vọng V-1 sẽ trở thành một “Wunderwaffe” – “vũ khí kỳ diệu” – có thể xoay chuyển cục diện và mang lại chiến thắng nhanh chóng.
Một loại vũ khí đi trước thời đại
V-1 thực sự là một bước tiến vượt bậc so với thời kỳ đó. Nó được lập trình sẵn để tìm đến mục tiêu và có khả năng tự điều chỉnh đường bay.
Hệ thống điều khiển tự động tiên tiến, được thiết lập trước khi phóng, cho phép cài đặt phạm vi bay, độ cao và thậm chí cả điều kiện gió cần thích ứng. Theo Bảo tàng Đức Deutsches Museum, V-1 có thể tự điều chỉnh đường bay nhờ khí áp kế, la bàn từ và con quay hồi chuyển tốc độ. Một bộ đo cự ly, vận hành nhờ cánh quạt, giúp nó tính toán chính xác để lao tới mục tiêu.
Mang theo đầu đạn nặng 1.800 pound (800 kg) và bay với tốc độ tối đa khoảng 640 km/giờ, V-1 được mệnh danh là “buzz bomb” – “quả bom vo vo” – vì tạo ra âm thanh rền rĩ đặc trưng, rồi đột ngột im bặt trước khi rơi xuống mục tiêu.
Thời gian để nó đánh trúng thường từ 15 đến 30 phút. Một vụ nổ có thể san phẳng nhiều công trình và giết chết hàng trăm người trong chốc lát.
Ngoài tính tự động, V-1 còn có nhiều điểm tương đồng với UAV hiện nay. Giống như nhiều biến thể drone hiện đại – chẳng hạn Kratos XQ-58A Valkyrie – V-1 có thể được phóng từ bệ nghiêng. Và cũng như chiến tranh drone ngày nay, V-1 thường được triển khai thành từng loạt.
Đặc biệt, V-1 còn có thể được phóng từ trên không. Theo hãng truyền thông Norddeutscher Rundfunk, hàng trăm V-1 đã được thả từ các oanh tạc cơ Heinkel 111 trong Thế chiến và đạt hiệu quả.
V-1 gieo rắc hủy diệt
Hitler kỳ vọng những chiếc máy bay không người lái rẻ tiền nhưng có sức hủy diệt lớn này sẽ bào mòn ý chí chiến đấu của đối phương và kéo dài cuộc chiến bất tận.
Khi việc sản xuất những loại “vũ khí kỳ diệu” trở thành trụ cột của nỗ lực chiến tranh Đức Quốc xã, tù nhân tại các trại tập trung và tù binh chiến tranh bị bắt buộc lao động đến chết để sản xuất V-1. Ngày nay, họ được tưởng niệm tại bảo tàng – đài tưởng niệm Mittelbau-Dora.
Một máy bay không người lái chuẩn bị được phóng
Để lắp ráp một V-1 cần khoảng 280 giờ công – tức một tuần trong điều kiện làm việc bình thường. Nhưng thực tế thời gian đó ngắn hơn rất nhiều vì công nhân nô lệ phải lao động khổ sai không ngừng, dưới sự giám sát tàn bạo của lực lượng SS.
Theo Bảo tàng Kỹ thuật Lịch sử Peenemünde, tổng cộng khoảng 30.000 V-1 đã được sản xuất trong thời gian ngắn trước khi chiến tranh kết thúc. Tính đến cuối tháng 3 năm 1945, hơn 10.000 quả đã được bắn vào London, số khác nhằm vào Rotterdam, Antwerp và Liege. Những “quả bom tự hành” này đã gây thương vong nặng nề và để lại cảnh hoang tàn khắp nơi.
Chỉ trong một đêm từ 15 đến 16.6.1944, hơn 200 V-1 được phóng từ 96 bệ phóng rải rác khắp châu Âu do Đức chiếm đóng để tấn công nước Anh. Hơn 70 quả lao xuống London và khoảng 53 quả đánh trúng Portsmouth cùng Southampton.
Đồng minh tìm ra đối sách
V-1 rẻ tiền, uy lực và gieo rắc nỗi sợ khủng khiếp. Nhưng cuối cùng, nó không mang lại “chiến thắng cuối cùng” cho Hitler vì nhiều lý do quan trọng. Dù không sở hữu công nghệ tương tự, phe Đồng minh đã tìm ra biện pháp đối phó hiệu quả. Các đòn đánh chặn bằng hỏa lực mặt đất lẫn không chiến đều phát huy tác dụng.
Trong đó, đánh chặn trên không được xem là hiệu quả nhất. Chiến thuật “hất cánh” (wing tipping), do phi công Spitfire người Úc Ken Collier tiên phong, cho phép các tiêm kích áp sát drone rồi dùng cánh hất nó chệch quỹ đạo. Ngoài ra, hệ thống bóng bay chướng ngại gắn dây cáp cũng đã chặn đứng nhiều V-1 trên không trung.
Nguyên tắc cơ bản trong cách Đồng minh đối phó là tấn công ngay lập tức, thay vì chờ xem mục tiêu của V-1. Bởi lẽ, chúng chắc chắn sẽ gây thương vong nếu để lọt, nên giải pháp duy nhất là hạ gục càng sớm càng tốt.
Ngoài ra, việc Đồng minh không ngừng ném bom các cơ sở sản xuất và bệ phóng V-1, cộng với tình thế chiến lược bế tắc của Đức, đã khiến loại “drone cảm tử” này không thể xoay chuyển cục diện.
Quan trọng hơn cả, những vụ tấn công tàn sát dân thường đã càng khiến các quốc gia Đồng minh củng cố quyết tâm kháng cự đến cùng. Tinh thần ấy được Winston Churchill diễn đạt mạnh mẽ trong bài phát biểu ngày 14.7.1941, sau những đợt oanh tạc trước đó của Luftwaffe: “Chúng ta không cầu xin kẻ thù một ân huệ nào. Chúng ta cũng chẳng mong họ chút thương hại nào… Các người đã phạm mọi tội ác dưới ánh mặt trời… Chúng ta sẽ không có đình chiến hay thương lượng với các người, hoặc với lũ tay sai ghê tởm của các người. Các người làm điều tệ hại nhất, chúng ta sẽ đáp trả bằng điều tốt nhất”.
Mặc dù được tuyên truyền trong nước như một giải pháp không người lái, rẻ tiền và hùng mạnh có thể xoay chuyển chiến tranh, V-1 cuối cùng đã thất bại. Nó không đạt được mục tiêu, ngay cả khi phe Đồng minh chỉ có công nghệ phòng chống UAV còn thô sơ.
Bùi Tú