Hoàn thiện quy chuẩn: Bước tiến quan trọng để ngành sữa Việt Nam 'cất cánh'

Hoàn thiện quy chuẩn: Bước tiến quan trọng để ngành sữa Việt Nam 'cất cánh'
8 giờ trướcBài gốc
Nhập khẩu sữa nguyên liệu: Bài toán cần lời giải?
Ngành sữa được xem là một trong những mắt xích quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Theo tài liệu của Viện Nghiên cứu Chiến lược, Chính sách Công Thương công bố vào ngày 5/8, cho thấy: Trong khoảng 15 năm trở lại đây, ngành sữa đã chứng kiến sự thay đổi đáng kể về cơ cấu sản phẩm, đặc biệt trong ngành sữa nước. Tỷ lệ sữa nước chế biến từ sữa bột hoàn nguyên giảm mạnh, từ 92% (năm 2008) xuống còn 48,6% (năm 2020) và tiếp tục giảm còn 32,3% vào năm 2023. Ngược lại, tỷ lệ sử dụng sữa tươi trong chế biến đã tăng từ 8% lên 67,7% trong cùng giai đoạn. Sự đảo chiều này phản ánh xu hướng minh bạch và nâng cao chất lượng trong ngành, khi sữa tươi với lợi thế giữ được giá trị dinh dưỡng tốt hơn đang dần chiếm ưu thế.
Tuy nhiên, đằng sau sự chuyển biến tích cực này vẫn tồn tại những bất cập lớn. Nguồn cung sữa tươi nguyên liệu chưa đáp ứng được nhu cầu chế biến sữa trong nước. Sản xuất sữa nguyên liệu phải đối mặt với sự mất cân bằng cung và cầu khi sữa tươi nguyên liệu trong nước mới đáp ứng nhu cầu sản xuất khoảng 40%. Mỗi năm, chi phí nhập khẩu sữa và các sản phẩm từ sữa rất lớn, tính riêng năm 2024 là khoảng hơn 1 tỷ USD, trong đó chủ yếu là sữa bột. Điều này dẫn tới gia tăng nhập siêu, hao tổn ngoại tệ và ảnh hưởng trực tiếp đến chủ trương phát triển tam nông (nông nghiệp, nông dân, nông thôn), cản trở mục tiêu phát triển đàn bò sữa và sản lượng sữa tươi trong nước, đồng thời kìm hãm sự phát triển của các doanh nghiệp nội địa trong ngành. Đặc biệt, thời gian qua, các vụ việc sản xuất chế biến sữa giả, kém chất lượng chủ yếu tập trung ở phân khúc sữa bột công thức với nguồn nguyên liệu chủ yếu nhập khẩu.
Hoàn thiện quy chuẩn: Bước đi then chốt bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Mặc dù ngành sữa nội địa đã có nhiều bước tiến rõ rệt, nhưng để phát triển bền vững và hội nhập quốc tế, vẫn còn không ít trở ngại cần được tháo gỡ. Một trong những thách thức nổi bật hiện nay là sự thiếu đồng bộ và những hạn chế trong hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đặc biệt đối với các sản phẩm sữa dạng lỏng.
Bộ Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 5-1:2010/BYT về các sản phẩm sữa dạng lỏng, do Bộ Y tế ban hành từ năm 2010, từng đóng vai trò nền tảng trong giai đoạn sơ khai của ngành sữa Việt Nam. Tuy nhiên, quy chuẩn này hiện đã bộc lộ nhiều điểm chưa còn phù hợp với thực tiễn sản xuất, tiêu dùng, cũng như xu thế hội nhập. Quy chuẩn quy định bốn loại: sữa tươi, sữa tiệt trùng, sữa cô đặc. Trong đó, “sữa tiệt trùng” được định nghĩa là sản phẩm chế biến bằng cách bổ sung nước với một lượng cần thiết vào sữa dạng bột, sữa cô đặc hoặc sữa tươi để thiết lập lại tỷ lệ nước và chất khô thích hợp. Điều này đồng nghĩa sản phẩm sữa nước này có thể được chế biến từ sữa bột pha lại hoặc hỗn hợp các loại sữa bột và sữa tươi.
Dù đã có nỗ lực sửa đổi như dự thảo QCVN 5-1:2017/BYT (Thông tư số 03/2017/TT-BYT ban hành tháng 3/2017 và bị thu hồi tháng 9/2017 do sai quy trình ban hành văn bản pháp luật), cho đến nay vẫn chưa có bản quy chuẩn mới chính thức được áp dụng. Hạn chế này đang gây ra nhiều khó khăn, trước hết, nó dẫn tới tình trạng gây nhầm lẫn sản phẩm “sữa tiệt trùng” trong cách ghi nhãn là sản phẩm được chế biến từ sữa tươi, khiến người tiêu dùng không được cung cấp đầy đủ thông tin về bản chất sản phẩm. Bên cạnh đó, hệ thống quy chuẩn hiện hành còn thiếu sự tương thích với các tiêu chuẩn quốc tế như Codex tổ chức mà Việt Nam là thành viên làm ảnh hưởng đến năng lực xuất khẩu và hội nhập của ngành.
Phát biểu tại hội thảo “Phát triển ngành sữa Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” được tổ chức mới đây, PGS.TS. Vũ Nguyên Thành, Viện trưởng Viện Công nghiệp thực phẩm, nhấn mạnh: Sữa hoàn nguyên từng là giải pháp phù hợp trong bối cảnh Việt Nam còn nhiều khó khăn về kinh tế, góp phần bổ sung dinh dưỡng cho trẻ em trong giai đoạn phát triển. Theo ông Thành, sữa tươi tuy vượt trội về giá trị dinh dưỡng nhưng lại đang gặp bất lợi trong cạnh tranh do chênh lệch giá thành so với sữa hoàn nguyên. Điều này tạo ra một nghịch lý trên thị trường: sản phẩm có giá trị dinh dưỡng tốt hơn lại ít cơ hội hơn. Vấn đề nằm ở chỗ, phần lớn người tiêu dùng hiện vẫn nhầm lẫn giữa “sữa tươi tiệt trùng” và “sữa hoàn nguyên tiệt trùng” do chưa có sự phân biệt rõ ràng trong các quy chuẩn kỹ thuật. Việc pha sữa bột rồi tiệt trùng vẫn được phép gọi là “sữa tiệt trùng”, khiến người dân khó nhận diện bản chất sản phẩm.
PGS. TS. Vũ Nguyên Thành, Viện trưởng Viện Công nghiệp Thực phẩm phát biểu tại hội thảo.
Đồng tình với quan điểm trên, GS.TS.BS Lê Thị Hợp, Chủ tịch Hội Nữ trí thức Việt Nam, nguyên Viện trưởng Viện Dinh dưỡng Quốc gia, cho rằng, cần nhìn nhận rõ ràng hơn về "sữa hoàn nguyên", loại sữa pha lại từ sữa bột. Theo bà, tranh luận hiện nay xoay quanh loại sữa sử dụng trong chương trình sữa học đường. Dù trên nhãn có ghi "sữa tươi tiệt trùng", nhưng thực tế rất khó xác định đó là sữa tươi nguyên liệu hay sữa hoàn nguyên pha lại từ bột.
Trong khi đó, ở các nước phát triển, sản phẩm sữa nước hầu hết được chế biến từ sữa tươi nguyên liệu. Nhiều quốc gia đã thực hiện các bước đi quyết liệt nhằm chuẩn hóa định nghĩa và chất lượng sữa. Đơn cử, Trung Quốc đã chính thức cấm sử dụng sữa bột hoàn nguyên trong sản xuất sữa tiệt trùng (Phụ lục sửa đổi số 1 của tiêu chuẩn GB 25190-2010, có hiệu lực từ 16/9/2025), nhằm thúc đẩy ngành sữa nội địa và bảo vệ người tiêu dùng.
Thực tiễn này cho thấy tính cấp thiết của việc sửa đổi hệ thống quy chuẩn quốc gia, đặc biệt là việc định danh rõ ràng các sản phẩm sữa dạng lỏng theo đúng bản chất nguyên liệu. Đây không chỉ là giải pháp kỹ thuật, mà còn là bước then chốt để thiết lập trật tự thị trường, nâng cao tính minh bạch về nguyên liệu đầu vào, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và thúc đẩy phát triển bền vững ngành sữa Việt Nam.
Ngoài vấn đề quy chuẩn, ngành sữa còn phải đối mặt với hàng loạt thách thức khác. Đó là sự phụ thuộc lớn vào nguyên liệu nhập khẩu, đặc biệt là sữa bột đang gây rủi ro về giá và tỷ giá; chi phí sản xuất cao do quy mô chăn nuôi còn nhỏ lẻ và công nghệ chưa đồng bộ; khó khăn trong kiểm soát chất lượng đầu vào, nhất là ở các hộ chăn nuôi nhỏ; sức ép cạnh tranh gay gắt từ sản phẩm ngoại nhập, đặc biệt là sữa bột trẻ em từ Úc, New Zealand và châu Âu. Thêm vào đó là khó khăn trong phát triển chuỗi liên kết vùng nguyên liệu - nhà máy - thị trường, cùng với những rào cản xuất khẩu liên quan đến tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc, chứng nhận Halal và Organic...
Diệu Linh
Nguồn Công Thương : https://congthuong.vn/cham-sua-doi-quy-chuan-gay-nhieu-he-luy-cho-nganh-sua-viet-nam-414829.html