Hoàn thiện thể chế để làm chủ công nghệ, mở đường cho phát triển bền vững

Hoàn thiện thể chế để làm chủ công nghệ, mở đường cho phát triển bền vững
2 giờ trướcBài gốc
Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Bùi Hoàng Phương chủ trì buổi họp báo
Một trong những nội dung thu hút sự quan tâm lớn của báo chí là thông tin về Luật Trí tuệ nhân tạo của Việt Nam do ông Trần Văn Sơn, Phó Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ) trình bày. Theo ông Trần Văn Sơn, trên thế giới hiện mới chỉ có một số khu vực và quốc gia ban hành luật về trí tuệ nhân tạo, tiêu biểu như Liên minh châu Âu, Hàn Quốc và Nhật Bản; nhiều quốc gia khác mới dừng lại ở mức chiến lược, hướng dẫn hoặc dự thảo luật. Trong bối cảnh đó, việc Việt Nam xây dựng và ban hành Luật Trí tuệ nhân tạo có ý nghĩa quan trọng, thể hiện tư duy chủ động, đi trước trong hoàn thiện thể chế cho công nghệ mới.
Ông Trần Văn Sơn, Phó Viện trưởng Viện Công nghệ số và Chuyển đổi số quốc gia (Bộ Khoa học và Công nghệ)
Luật Trí tuệ nhân tạo được xây dựng với mục tiêu kép: Vừa lấp đầy khoảng trống pháp lý trong quản lý các hình thức ứng dụng mới của trí tuệ nhân tạo, vừa chuyển từ tư duy quản lý bị động sang kiến tạo, chủ động. Thông qua đó, luật góp phần thể chế hóa các chủ trương của Đảng, định hình trí tuệ nhân tạo trở thành một trong những động lực tăng trưởng kinh tế cốt lõi của quốc gia trong thời gian tới.
Một nguyên tắc xuyên suốt của Luật Trí tuệ nhân tạo là định hướng lấy con người làm trung tâm. Theo đó, trí tuệ nhân tạo phải được phát triển và ứng dụng một cách an toàn, minh bạch, có trách nhiệm và vì lợi ích của con người. Luật khẳng định trí tuệ nhân tạo chỉ là công cụ hỗ trợ, không thay thế vai trò quyết định của con người; đồng thời, việc phát triển và ứng dụng trí tuệ nhân tạo phải gắn với bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Từ góc độ chiến lược, Luật Trí tuệ nhân tạo được kỳ vọng tạo ra bước đột phá quan trọng, giúp Việt Nam chuyển từ vị thế chủ yếu tiêu thụ sang từng bước kiến tạo giá trị trong lĩnh vực công nghệ cao. Luật tập trung giải quyết các điểm nghẽn cốt lõi về thể chế, hạ tầng, dữ liệu và tài chính; qua đó tạo nền tảng cho việc hình thành hệ sinh thái trí tuệ nhân tạo bền vững. Về kinh tế, luật thúc đẩy đổi mới sáng tạo, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia thông qua các cơ chế ưu đãi, quỹ phát triển trí tuệ nhân tạo. Về xã hội, luật góp phần xác lập hành lang pháp lý nhân văn, bảo vệ quyền lợi công dân trước các rủi ro đạo đức nảy sinh từ việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo.
Đáng chú ý, Luật Trí tuệ nhân tạo cũng định hướng làm chủ các mô hình nền tảng, mô hình ngôn ngữ lớn và dữ liệu bản địa, nhằm giúp trí tuệ nhân tạo hiểu sâu sắc hơn về ngôn ngữ, văn hóa Việt Nam. Đây không chỉ là vấn đề công nghệ, mà còn gắn trực tiếp với yêu cầu bảo đảm chủ quyền, an ninh quốc gia trong kỷ nguyên số. Theo đó, Luật Trí tuệ nhân tạo không chỉ đóng vai trò là công cụ quản lý, mà còn là cam kết chiến lược của Việt Nam trong việc làm chủ công nghệ, bảo vệ con người và kiến tạo một tương lai số chủ động, an toàn và nhân văn.
Ông Chu Thúc Đạt, Phó Vụ trưởng Vụ Đổi mới sáng tạo (Bộ Khoa học và Công nghệ)
Cũng tại họp báo, ông Chu Thúc Đạt, Phó Vụ trưởng Vụ Đổi mới sáng tạo (Bộ Khoa học và Công nghệ) đã thông tin về một số điểm mới của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ. Theo ông Chu Thúc Đạt, lần sửa đổi này hướng tới ba mục tiêu chính. Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm thúc đẩy hoạt động chuyển giao công nghệ hiệu quả, đồng bộ, phù hợp với yêu cầu thực tiễn và chủ trương phát triển kinh tế – xã hội, đồng thời bắt kịp xu thế quốc tế và tăng cường phân cấp, đơn giản hóa các mục tiêu chính sách. Thứ hai, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ nội sinh, tăng cường liên kết công nghệ giữa doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong nước với các chủ thể ở nước ngoài. Thứ ba, phát triển thị trường khoa học và công nghệ theo hướng hiệu quả, minh bạch và chuyên nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho các giao dịch công nghệ và tài sản trí tuệ, qua đó góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Về các điểm mới đáng chú ý, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ đã mở rộng khái niệm về công nghệ. Theo đó, công nghệ không chỉ giới hạn ở máy móc, thiết bị mà còn bao gồm tri thức, dữ liệu, thiết kế, mô hình, thuật toán và phần mềm; coi đây là các đối tượng công nghệ theo nghĩa đầy đủ. Luật cũng quy định rõ các hình thức chuyển giao như tài liệu công nghệ, quy trình quản lý chất lượng, tiêu chuẩn và thông số kỹ thuật, phản ánh đúng xu thế phát triển công nghệ hiện nay và giá trị gia tăng của tài sản trí tuệ.
Quang cảnh buổi họp báo
Luật đồng thời hoàn thiện các quy định liên quan đến xác lập và bảo vệ quyền sở hữu, quyền sử dụng công nghệ theo pháp luật về sở hữu trí tuệ, khoa học và công nghệ, quản lý tài sản công, Bộ luật Dân sự và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Trên cơ sở đó, tổ chức, cá nhân có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp công nghệ được phép thương mại hóa công nghệ hoặc góp vốn bằng công nghệ trong các dự án đầu tư, doanh nghiệp, qua đó khuyến khích khai thác hiệu quả tài sản trí tuệ.
Một điểm mới quan trọng khác là các quy định về quản lý rủi ro và thẩm định công nghệ. Theo luật, việc thẩm định chỉ áp dụng đối với các dự án sử dụng công nghệ hạn chế chuyển giao hoặc có nguy cơ tác động xấu đến môi trường, nhằm phòng ngừa rủi ro ngay từ khâu phê duyệt dự án. Thủ tục được cải cách theo hướng chỉ thẩm định một lần tại thời điểm phù hợp, thay vì hai lần như quy định của Luật năm 2017; đồng thời tăng cường phân cấp cho địa phương, công khai kết quả thẩm định và đẩy mạnh cơ chế giám sát hậu kiểm. Cách tiếp cận này vừa bảo đảm yêu cầu quản lý rủi ro, vừa giảm thủ tục hành chính cho nhà đầu tư.
Luật cũng nhấn mạnh vai trò phát triển các tổ chức trung gian của thị trường khoa học và công nghệ, như tổ chức môi giới, tư vấn, đánh giá, thẩm định giá công nghệ và kết nối cung - cầu. Việc xây dựng các sàn giao dịch khoa học và công nghệ cùng các cơ chế hỗ trợ đổi mới được kỳ vọng sẽ khắc phục những hạn chế của hệ thống trung gian hiện nay, tạo nền tảng để thị trường công nghệ vận hành thông suốt, minh bạch và hiệu quả hơn.
Bên cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chuyển giao công nghệ cũng bổ sung các quy định về chuyển đổi số toàn diện trong quản lý nhà nước, từ giám sát, thống kê đến công bố công khai hoạt động chuyển giao công nghệ. Các quy định chi tiết mang tính định lượng sẽ do Chính phủ hướng dẫn, nhằm bảo đảm tính linh hoạt và phù hợp với thực tiễn triển khai. Với 21 điều được sửa đổi, luật được kỳ vọng tạo hành lang pháp lý thuận lợi hơn cho hoạt động chuyển giao công nghệ và sự phát triển của thị trường công nghệ trong thời gian tới.
Thứ trưởng Bùi Hoàng Phương kết luận họp báo
Kết luận họp báo, Thứ trưởng Bùi Hoàng Phương nhấn mạnh năm 2025 là một năm có tính đột phá về thể chế của ngành khoa học và công nghệ, với 10 luật và 23 nghị định, gần 70 thông tư được xây dựng và sửa đổi. Thứ trưởng khẳng định chưa có năm nào các bộ, ngành, địa phương tập trung xây dựng các nền tảng số và cơ sở dữ liệu quốc gia mạnh mẽ như năm nay. Đối với các luật mới ban hành, Bộ Khoa học và Công nghệ đã chủ động xây dựng kế hoạch triển khai, phối hợp với Bộ Tư pháp dự kiến ban hành 16 văn bản quy định chi tiết, bảo đảm không để xảy ra tình trạng “luật chờ nghị định”. Đồng thời, các đơn vị trực thuộc Bộ tiếp tục đẩy mạnh công tác truyền thông, xây dựng các cẩm nang, tài liệu hướng dẫn công khai, giúp người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, áp dụng luật ngay khi có hiệu lực.
Thu Hằng. Ảnh: Truyền thông KHCN
Nguồn Hà Nội Mới : https://hanoimoi.vn/hoan-thien-the-che-de-lam-chu-cong-nghe-mo-duong-cho-phat-trien-ben-vung-728838.html