Nhà báo Vân Quế
Đi dọc con sông Chảy - đó là một trải nghiệm mang lại cho du khách cảm giác khá dễ chịu, dù đường chỉ “toàn cua là cua” - đó là một dòng sông đặc biệt, con sông chảy ngược từ Việt Nam sang Trung Quốc rồi lại vòng về. Thượng nguồn của sông từ suối Nậm Má - Cao Bồ (Vị Xuyên) ngược Nậm Ty (Hoàng Su Phì) đến cầu Cốc Pài (Xín Mần) dài 70km. Đoạn này có tên là sông Cốc. Từ cầu Cốc Pài, con sông chảy qua lòng núi, khe đá vào địa phận Trung Quốc 56km, dòng nước vòng xuống, đổ vào hồ Thác Bà (Yên Bái).
Những ngày cuối thu, chiều xuống rất nhanh, đường núi vắng, lâu lâu mới thấy một xe đi chiều ngược lại. Không biết bắt đầu từ đoạn nào, có một chiếc xe mô-tô phân khối lớn, lúc đi nhanh, đi chậm, vượt lên rồi lại chậm phía sau bám đuôi, khi đến Bản Phùng, chúng tôi lại ở cùng một “homestay”...
Đỉnh Chiêu Lầu Thi ở xã Hồ Thầu
Ruộng bậc thang - công trình kỳ vĩ ở Hoàng Su Phì
Hoàng Su Phì có tới 12 dân tộc thiểu số sinh sống, đông nhất là dân tộc Nùng với hơn 38%, dân tộc Dao là 22%, H'Mông 13%, còn lại là các dân tộc khác. Hoàng Su Phì còn là địa bàn sinh sống của rất đông người dân tộc La Chí. Nằm ở nơi có địa hình cao, có tới 1/3 dân số của huyện sống trong vùng rất khó khăn, kinh tế chính dựa vào nông nghiệp. Du lịch ở Hoàng Su Phì phát triển mạnh kể từ khi ruộng bậc thang của 11/18 xã được công nhận là Di tích cấp quốc gia và trở thành điểm du lịch quan trọng của tuyến du lịch phía Tây tỉnh Hà Giang, tuyến Hoàng Su Phì - Xín Mần.
Năm 2012, ruộng bậc thang Hoàng Su Phì đã được Bộ VH-TT&DL cấp bằng công nhận Di tích Quốc gia. Theo đó, Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch chính thức công nhận 760ha trong tổng số hơn 3.000ha diện tích ruộng bậc thang của Hoàng Su Phì tại 6 xã: Bản Luốc, Sán Sả Hồ (bản người Dao áo dài và người Nùng); xã Bản Phùng (bản người La Chí); xã Hồ Thầu, xã Nậm Ty và xã Thông Nguyên (bản người Dao đỏ). Đến năm 2016 huyện Hoàng Su Phì tiếp tục được Bộ VH-TT&DL ra Quyết định xếp hạng bổ sung di tích Quốc gia danh lam thắng cảnh ruộng bậc thang tại 5 xã Thàng Tín, Pố Lồ, Nậm Khòa, Bản Nhùng, Tả Sử Choóng, nâng tổng số xã có ruộng bậc thang được xếp hạng lên 11.
Ruộng bậc thang là một loại hình canh tác tương đối phổ biến, có mặt ở rất nhiều quốc gia mà tiêu biểu là các nước thuộc khu vực Đông Nam Á như: Việt Nam, Lào, Thái Lan, Phillipines, Indonesia và một số tỉnh phía Nam Trung Quốc. Tại Việt Nam hệ thống ruộng bậc thang là phương thức sản xuất của rất nhiều dân tộc sinh sống ở miền núi phía Bắc như La Chí, Hà Nhì, Mông, Dao, Nùng... Mỗi dân tộc lại có quá trình hình thành và phát triển sản xuất trên ruộng bậc thang khác nhau, những tập quán, những cách thức canh tác cũng như những nghi lễ, tín ngưỡng nông nghiệp không giống nhau.
Theo “Lý lịch danh thắng Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì” của Bảo tàng tỉnh Hà Giang, cho đến nay chưa có một tài liệu chính thống nào khẳng định được chính xác thời gian xuất hiện của hình thức canh tác trên ruộng bậc thang cũng như dân tộc nào đã sáng tạo ra, tuy nhiên các nhà nghiên cứu cho rằng hình thức canh tác trên ruộng bậc thang đã xuất hiện ở Hoàng Su Phì từ vài trăm năm trước. Cụ thể, trong báo cáo tổng quát tình hình chính trị, kinh tế của khu quân sự 3 về kỳ họp thường kỳ của Hội đồng Chính phủ năm 1915 (văn bản tiếng Pháp lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ quốc gia I) có ghi: “Từ vài năm nay nhất là trong vùng Hoàng Su Phì, những người dân vùng cao đã hiểu được rằng việc trồng lúa nương, sau khi khai hoang đất ven rừng hoặc trong rừng thì năng suất thấp... Họ đã quyết định, trên tất cả những sườn đồi làm những thửa ruộng bậc thang... hàng nghìn ha (tôi cho rằng khoảng 100km) ruộng mới được đưa vào canh tác từ 5 hoặc 6 năm nay”.
Ngay trong những tài liệu ghi chép về người La Chí từ đầu thế kỷ trước cũng ghi nhận, người dân Bản Phùng chủ yếu canh tác bằng ruộng bậc thang, như vậy có thể khẳng định hình thức canh tác trên ruộng bậc thang đã có mặt ở Hoàng Su Phì từ trước đó rất lâu.
Quá trình phát triển ruộng bậc thang ở mỗi dân tộc lại có sự khác nhau. Với người La Chí ruộng bậc thang đã là hình thức sản xuất chủ yếu được nhắc đến trong những tài liệu sớm nhất nghiên cứu về dân tộc này và cho đến ngày nay đây vẫn là hình thức sản suất quan trọng nhất của họ. Với người Dao và người Nùng, hai dân tộc di cư vào Việt Nam muộn hơn, quá trình phát triển ruộng bậc thang của họ vì thế cũng muộn hơn. Mặc dù lịch sử hình thành ruộng bậc thang có khác nhau nhưng sự phát triển của hình thức sản xuất này ở mỗi dân tộc đều đạt đến trình độ rất cao. Việc khai phá một thửa ruộng đối với các dân tộc đều có những quy trình tương đối giống nhau nhưng trong từng khâu, mỗi dân tộc lại có cách thức canh tác rất khác biệt.
Trong lịch sử thiên di của mỗi dân tộc, trước khi đến với mảnh đất Hoàng Su Phì, họ đều sống du canh, du cư. Họ đến đây thành nhiều đợt vào từng giai đoạn khác nhau. Ban đầu hình thức canh tác chính vẫn là đốt rừng làm nương rẫy. Trải qua thời gian, khi rừng đã cạn kiệt họ chuyển dần sang hình thức sống định cư. Lấy phương thức canh tác trên ruộng bậc thang làm hoạt động sản xuất chủ đạo để duy trì cuộc sống. Tại những khu vực mà họ lựa chọn để định cư họ tạo dựng trên đó nhiều công trình phục vụ cho cuộc sống, chỗ bằng phẳng nhất được dành để dựng nhà, sân, vườn, chuồng gia súc, gia cầm, kho thóc được bố trí quanh nhà. Ruộng thường được tạo phía trên, dưới hoặc xung quanh nhà.
Dù với bất cứ dân tộc nào thì công việc khai phá ruộng cũng đều được tính toán rất kỹ lưỡng. Khi khai phá ruộng kinh nghiệm mà tất cả các dân tộc đúc kết được là đối với những khu ruộng cao phải giữ lại khoảng rừng phía trên đỉnh để lấy nước, chỉ khai phá từ lưng chừng đồi trở xuống. Mùa khai phá ruộng thường bắt đầu ngay sau khi ăn Tết xong, trong tháng Giêng và tháng hai (âm lịch) hoặc được tiến hành vào mùa mưa trong khoảng từ tháng 4 đến tháng 9. Việc khai ruộng được bắt đầu từ trên xuống, công cụ được sử dụng khi khai ruộng chỉ là những công cụ giản đơn như: Cuốc chim, xẻng, cuốc, bừa gỗ, dao quắm. Khi khai ruộng họ giữ lại lớp đất trên bề mặt để riêng ra, sau khi khai ruộng xong họ trải lớp đất đó lên trên làm đất màu để canh tác.
Làm bờ ruộng là công việc mà bất cứ dân tộc nào canh tác trên ruộng bậc thang cũng phải làm để giữ nước. Đây là một công việc cần có kỹ thuật và sự khéo léo, việc đắp bờ thường đòi hỏi phải là người có kinh nghiệm thiết kế hệ thống các thửa ruộng bậc thang, khoanh hẹp, khoanh dài, khoanh ngắn và độ cao của ruộng đều phải dựa vào kinh nghiệm để tính toán cho hợp lý. Ở những thửa ruộng bậc thang, bờ ruộng thường rất nhỏ, chỉ vừa một bàn chân, bờ được làm ngay từ khi san ruộng, đất làm bờ lấy ngay trong ruộng, người ta dùng cuốc cào đất thành bờ, chỗ nào thấp và thiếu đất thì lấy thêm đất đắp vào sau đó dùng chân nén chặt bờ ruộng, bờ thường cao hơn mặt ruộng 15-20cm. Trên những triền ruộng có độ dốc cao và có khe nước chảy, công việc làm bờ trở nên vất vả hơn, trước tiên người ta phải lấy đá kè chặt những đoạn bờ thường bị sói lở, những kè đất này được xếp từ ruộng dưới kè cao đến mặt ruộng trên rồi sau đó mới lấy đất đắp bờ trên mặt kè đá. Có như vậy mới đảm bảo ruộng không bị lở, rửa trôi chất màu của đất.
Hệ thống thủy lợi trong canh tác ruộng nước là một biểu hiện cao của tri thức địa phương và tộc người trong hoạt động nông nghiệp. Việc đưa nước về ruộng là công việc quan trọng phải làm sau khi những thửa ruộng bậc thang đã được khai phá. Với mỗi dân tộc lại vận dụng nhiều cách thức đưa nước về ruộng khác nhau, thường phụ thuộc vào địa hình và khoảng cách từ nguồn nước đến chân ruộng. Nguồn nước thường phụ thuộc vào những khu rừng cấm trên những đỉnh núi hoặc các khe nước đầu nguồn.
Việc đưa nước về có thể qua hệ thống máng tre dẫn nước do gia đình tự làm hoặc cả cộng đồng làng bản cùng chung sức đào mương dẫn nước. Hiện nay việc làm mương là hình thức dẫn nước phổ biến có mặt ở tất cả các bản làng của cộng đồng. Nhiều nơi đã có hệ thống dẫn nước được bê tông hóa, dẫn nước trực tiếp từ các khe suối về ruộng cao cao nhất, rồi cho nước chảy từ trên xuống các khu ruộng tấp hơn phía dưới.
Canh tác trên ruộng bậc thang cũng giống như canh tác trên ruộng đồng bằng phải tiến hành nhiều khâu liên hoàn gồm làm đất, gieo mạ, cấy lúa, chăm sóc và thu hoạch. Trong suốt quá trình sinh trưởng của cây lúa, người ta luôn chú ý đến việc diệt trừ sâu bệnh, việc diệt trừ sâu thường làm thủ công bên cạnh đó các gia đình sau khi cấy xong thường đem cá chép thả vào chân ruộng vừa để diệt sâu bệnh vừa có thêm nguồn thực phẩm phục vụ nhu cầu của gia đình mình và từ đó, cá chép ruộng bậc thang đã trở thành một món đặc sản đối với mỗi du khách khi ghé thăm Hoàng Su Phì...
Với đặc điểm tự nhiên, tập quán canh tác như vậy, từ bao đời nay, các đồng bào dân tộc thiểu số tại Hoàng Su Phì đã tạo dựng lên những khu ruộng bậc thang, để trồng lúa nước sinh sống và bây giờ, việc phát triển du lịch với thế mạnh là cảnh quan độc đáo của ruộng bậc thang đã và đang dần mang lại lợi ích cho người dân ở nơi này.
Ông bà chủ của “homestay” Chán Mủi ở Hồ Thầu
Bản Phùng - Trái tim của Hoàng Su Phì
Bản Phùng là một trong những xã cách trung tâm huyện Hoàng Su Phì khoảng 30km sở hữu danh thắng ruộng bậc thang rất đẹp, một trong những điểm nhất định phải “check in” khi đến Hà Giang. Người dân ở đây chủ yếu là đồng bào dân tộc La Chí với nhiều nét văn hóa đặc sắc còn được lưu giữ khá nguyên vẹn.
Dân yêu thích du lịch thường ví, Bản Phùng như trái tim của Hoàng Su Phì, nơi trung tâm của ruộng bậc thang kỳ vĩ, nơi có những điểm săn mây, đón bình minh rất đắc địa... Nơi mà từ trên cao nhìn xuống, những thếp ruộng nối nhau lên đến tận lưng chừng núi. Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì đẹp nhất vào mùa nước đổ (khoảng tháng 4-6) và mùa lúa chín (tháng 9-10). Đó là những thời điểm mà sắc trắng của nước, màu vàng của lúa nổi bật trên nền xanh thẳm của rừng, màu trầm của núi non, màu trắng của mây, màu lam của trời. Tất cả màu sắc cộng lại tạo nên một bảng màu hoàn chỉnh vừa rực rỡ, vừa phóng khoáng, vừa mê hoặc.
Chúng tôi đến Bản Phùng lúc trời đã sụp tối, chàng trai đi xe mô-tô phân khối lớn đi theo xe chúng tôi từ Xín Mần sang đã thấy ngồi uống nước trong “homestay”. Ở Bản Phùng chưa nhiều “homestay”, cũng chưa có cái không khí sôi động chuyên nghiệp “thương mại hóa” của một điểm du lịch “ăn khách”. Bao nét tự nhiên, hoang sơ vẫn còn giữ được nguyên vẹn. Ông bà chủ
“homestay” có việc ngoài trung tâm huyện, ở nhà chỉ còn có duy nhất thanh niên nom dáng vẻ hiền lành, vừa đón khách, vừa đảm nhận tất cả các công việc “buồng - bàn - bar - bếp”... Khách hoan hỉ, không sao, ở “homestay” cũng như ở nhà! Bữa cơm tối đó của chúng tôi khá đơn giản, nhìn sang phía bàn thanh niên đi phượt cũng y hệt cơm canh, chếch sang góc trái có 2 nam du khách người Pháp đang lóng ngóng cầm đũa cũng đủ từng đó món. Cậu thanh niên đi phượt một mình bằng mô-tô phân khối lớn tên Minh, 20 tuổi, người Hà Nội, lần đầu đến Hoàng Su Phì. Cuộc gặp ngỡ bất ngờ ở Bản Phùng của những người không quen rôm rả từ lúc bắt đầu đến khi đêm muộn...
Bản Phùng đẹp nhất là lúc bình minh lên. Khi đó, du khách có thể vừa ngắm những thửa ruộng bậc thang vừa nhìn biển mây trắng thoắt đầy, thoắt vơi, như bồng bềnh trôi dưới chân mình. Buổi sáng ở đây, không khí trong lành, nhiệt độ vừa đủ se lạnh, rất dễ chịu. Không nối nhau điệp trùng như ruộng bậc thang ở Mù Cang Chải - Yên Bái, ruộng bậc thang ở Hoàng Su Phì được “thiết kế” như treo trên những sườn núi dốc đứng, từng bậc từng bậc cảm giác như cứ bước theo những bậc đó thôi là có thể lên tới đỉnh trời.
Sáng sớm hôm sau, “thành viên lạ - quen tối hôm trước” không hẹn mà lại gặp nhau ngoài hiên, ăn bát mỳ “triệu view”, châm ấm trà san tuyết rồi cùng ngồi chờ mặt trời lên và nói lời tạm biệt để người về Nội Bài, kịp chuyến bay đi Pháp, người tiếp tục hành trình khám phá Hoàng Su Phì...
Bát mỳ với “view triệu đô” ở Hoàng Su Phì
Hồ Thầu dưới chân Chiêu Lầu Thi
Ở Bản Phùng, du khách có thể tiếp tục hành trình tới thăm thôn Na Léng - nơi được ví như “trái tim” của Bản Phùng, nơi có những nếp nhà của người La Chí. Nơi có tục uống rượu hoẵng đổ vào trong những chiếc sừng trâu, phong tục thường có vào những dịp quan trọng như lễ, Tết. Nơi có tục cúng cơm mới. Theo quan niệm của đồng bào La Chí, trước mùa gặt, trước khi được ăn những hạt lúa mới, bà con phải làm Lễ mừng cơm mới để cúng báo tổ tiên, tạ ơn trời đất, tạ ơn thần linh đã phù hộ một năm mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi. Lễ mừng cơm mới là sự kiện có ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống của người La Chí. Chỉ khi nào đã làm xong lễ cúng mừng cơm mới, người dân trong bản mới được ăn cơm gạo mới, nếu chưa làm thì chưa ai được ăn... Cho đến nay, người La Chí vẫn giữ nguyên tập tục này.
Từ Bản Phùng có thể di chuyển Hồ Thầu hay gần hơn là Bản Luốc. Đây là một trong ba điểm ruộng bậc thang đẹp nhất Hoàng Su Phì. Hồ Thầu cách ngã 3 Nậm Dịch khoảng 16km. Đây là nơi định cư lâu đời của người Dao đỏ. Những thửa ruộng bậc thang của người dân ở nơi người dân ở đây có lệ, cứ mỗi khoảng ruộng chừa ra một khoảng rừng nhỏ vây quanh để giữ đất khỏi bị sạt lở.
Hồ Thầu theo tiếng địa phương còn có nghĩa là “đầu nguồn” vì nơi đây là điểm bắt nguồn cho những nhánh suối nhỏ của thượng nguồn sông Chảy và sông Bạc. Hồ Thầu thuộc 23 xã của Hoàng Su Phì, Hà Giang, cách trung tâm huyện lỵ 30 km. Xã Hồ Thầu nằm ở độ cao trên 1.000 m so với mực nước biển, có khí hậu mát mẻ quanh năm cùng phong cảnh thiên nhiên hữu tình. Đây cũng là cung đường du khách buộc phải đi qua để chinh phục đỉnh Chiêu Lầu Thi.
Cũng tại Hồ Thầu, du khách vừa có thể ngắm nhìn những thửa ruộng bậc thang kỳ vĩ, thăm những cánh rừng chè san tuyết cổ thụ cùng với đó là hệ thống rừng nguyên sinh với những cây cổ thụ cả trăm năm tuổi phủ kín địa y. Không chỉ có cảnh quan thiên nhiên hoang sơ, yên bình, Hồ Thầu còn hấp dẫn du khách bởi những nét văn hóa truyền thống, phong tục tập quán đặc sắc, hệ thống lễ hội độc đáo như: Lễ hội Bàn Vương, Lễ Cấp sắc, trò Nhảy lửa, bói Lồng gà, múa bắt Rùa… Dù không nổi tiếng như Bản Phùng, Bản Luốc, nhưng Hồ Thầu vẫn là một điểm đến hấp dẫn đối với du khách với vẻ đẹp hồn hậu, thân thiện và lặng lẽ và bình yên.
Trong chuyến hành trình trải nghiệm Hà Giang, chúng tôi đã có một đêm nghỉ lại “homestay” - một ngôi nhà Dao cổ - có cái tên Chán Mủi ở Hồ Thầu. Thấy bảo, ngôi nhà đã có cả trăm năm. Vợ chồng anh Chán chị Mủi nhiệt tình, mến khách. Biết chúng tôi đường xa mỏi mệt, chị nhanh nhẩu đi đun cho một nồi nước lá tắm. Mà lạ, chỉ cần ngửi thấy hương nồi nước lá đang đun trên bếp củi thôi đã thấy đầu óc nhẹ nhõm được dăm ba phần rồi.
Sống ở nhà chị, chẳng thấy có ranh giới chủ - khách. Mâm cơm cúng lễ tổ tiên trong lễ mừng cơm mới được bưng ra cùng ăn, ngoài khách ở “homestay” ra, chủ nhà còn mời thêm cả họ hàng và xóm giềng. Một bữa cơm vui vẻ theo mọi nhẽ. Chủ nhà nhiệt tình, mời rượu, uống hết chén vợ mời, đến chén chồng mời, rồi em dâu, em gái, anh rể, em trai... khách cứ gọi là ngất ngây vì rượu…
Vân Quế