Học viện Dân tộc đào tạo các ngành đặc thù gắn với giảm nghèo bền vững

Học viện Dân tộc đào tạo các ngành đặc thù gắn với giảm nghèo bền vững
3 giờ trướcBài gốc
Đào tạo nguồn nhân lực là người dân tộc thiểu số, am hiểu địa bàn, văn hóa và nhu cầu cộng đồng được xem là hướng đi căn bản, lâu dài cho phát triển vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Từ đó tạo sinh kế bền vững, góp phần xóa đói giảm nghèo, nâng cao đời sống người dân.
Với sứ mệnh là cơ sở khoa học, giáo dục công lập nghiên cứu về dân tộc, chính sách dân tộc; đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhân lực chất lượng cao cho vùng dân tộc thiểu số, Học viện Dân tộc đang từng bước khẳng định vai trò đặc thù, không thể thay thế trong hệ thống giáo dục đại học, góp phần đào tạo đội ngũ trí thức “từ bản làng đi ra, trở về phục vụ bản làng”.
Trao đổi với phóng viên, Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Thu - Phó Trưởng phòng, Phòng Đào tạo và Công tác sinh viên (Học viện Dân tộc) cho biết, điểm khác biệt lớn nhất của Học viện là phần lớn sinh viên đang theo học đều là người dân tộc thiểu số. Đây vừa là thuận lợi, cũng vừa là thách thức trong trong xây dựng chương trình đào tạo đặc thù, phù hợp với nhu cầu nhân lực cho vùng dân tộc thiểu số.
Trong những năm qua, Học viện đã xây dựng chương trình đào tạo đặc thù nhằm hướng đến giúp sinh viên có khả năng quay về phục vụ phát triền kinh tế - xã hội ở quê hương, đóng góp tích cực vào công tác giảm nghèo, chuyển đổi số, tuyên truyền thông tin tại chính quê hương mình.
Chương trình đào tạo “đặc thù trong đặc thù”, giúp sinh viên trở về địa phương “mở sinh kế”
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Thu, Học viện Dân tộc là cơ sở giáo dục đại học công lập có chức năng nghiên cứu chiến lược, chính sách dân tộc; đào tạo trình độ đại học, sau đại học; đồng thời bồi dưỡng kiến thức dân tộc cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong nước và quốc tế. Theo đó, chương trình đào tạo của Học viện được xây dựng theo hướng chuyên sâu, tập trung vào những lĩnh vực, kiến thức, kỹ năng gắn trực tiếp với vùng đồng bào dân tộc thiểu số mà rất ít cơ sở giáo dục đại học trong cả nước triển khai.
Trong chương trình đào tạo của Học viện hiện có nhiều học phần chuyên sâu mà không có hoặc rất ít trường đào tạo, như: Chính sách dân tộc, Các dân tộc thiểu số Việt Nam, Giáo dục di sản vùng dân tộc thiểu số, Giáo dục dân tộc, Quản lý xã hội vùng dân tộc thiểu số… Đây là những học phần mang tính ứng dụng cao, giúp sinh viên có thể vận dụng ngay kiến thức vào thực tiễn địa phương nơi các em sinh sống”.
Trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, khoảng cách tiếp cận thông tin giữa vùng thuận lợi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số vẫn còn không ít thách thức.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Thu, thông tin được tiếp cận kịp thời, đúng hướng sẽ giúp người dân có những hành động phù hợp, hạn chế rủi ro, tăng cường cơ hội học tập, phát triển kinh tế, xã hội. Tiếp cận thông tin cũng là một trong các tiêu chí đo lường nghèo đa chiều hiện đang áp dụng ở nước ta. Do đó, việc giảm nghèo thông tin là một nội dung quan trọng được được lồng ghép xuyên suốt trong chương trình, chuyên đề đào tạo và bồi dưỡng của Học viện.
“Ngoài chức năng đào tạo đại học, sau đại học; Học viện còn có chức năng bồi dưỡng kiến thức dân tộc cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc đối tượng 3 (Giữ chức vụ quản lý) và đối tượng 4 (Không giữ chức vụ quản lý) công tác trong hệ thống chính trị từ trung ương đến địa phương”, cô Thu cho biết thêm.
Chương trình bồi dưỡng được thiết kế gồm 6 chuyên đề giảng dạy trực tiếp và 6 chuyên đề tham khảo, tự học. Nội dung chương trình, không chỉ cập nhật quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về dân tộc thường xuyên; mà còn chú trọng các nội dung thực tiễn về giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số, hỗ trợ sinh kế, tuyên truyền, nâng cao khả năng tiếp cận thông tin cho người dân.
Mỗi năm, Học viện được giao tổ chức hàng chục lớp bồi dưỡng kiến thức dân tộc cho cán bộ, công chức, viên chức đang công tác trong hệ thống chính trị, từ trung ương đến địa phương, đến tận thôn, bản. Thông qua các đợt tập huấn, bồi dưỡng; kiến thức về công tác dân tộc được truyền tải đến đồng bào dân tộc thiểu số một cách gần gũi, nhanh chóng, phù hợp với cộng đồng; từ đó góp phần thu hẹp khoảng cách thông tin, nâng cao năng lực tiếp cận chính sách ở cơ sở.
Gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động tại địa phương
Một trong những yêu cầu quan trọng để đào tạo gắn với thực tiễn là việc khảo sát nhu cầu nhân lực của các địa phương. Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Thu, đây không chỉ là yêu cầu chuyên môn mà còn là quy định bắt buộc theo Thông tư số 02/2022/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Nên ngay từ khi xây dựng chương trình đào tạo, Học viện Dân tộc đã phối hợp chặt chẽ với các địa phương có đông đồng bào dân tộc thiểu số trong việc khảo sát nhu cầu nhân lực về ngành dự kiến đào tạo, đồng thời đã có định hướng nghề nghiệp cho sinh viên trong chương trình đào tạo.
“Các ngành Học viện đã mở là Kinh tế giáo dục vùng dân tộc thiểu số và các ngành đang thực hiện mở trong năm 2025 như: Văn hóa - Ngôn ngữ Việt Nam (bao gồm ngôn ngữ và văn hóa các dân tộc thiểu số), Công tác xã hội (chuyên sâu về dân tộc, tôn giáo),... đều được xây dựng trên cơ sở khảo sát nhu cầu nhân lực thực tế của vùng dân tộc thiểu số hiện nay”, cô Thu thông tin.
Cũng theo cô Thu, việc gắn đào tạo với nhu cầu sử dụng lao động tại địa phương giúp sinh viên có định hướng nghề nghiệp rõ ràng ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, đồng thời tạo động lực cho sinh viên quay quay trở về địa phương công tác sau khi tốt nghiệp.
Khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường từ chính người học
Một trong những mục tiêu lớn của Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững là khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường vươn lên thoát nghèo. Theo Tiến sĩ Nguyễn Thị Bích Thu: Đào tạo nguồn nhân lực cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số không chỉ dừng ở việc trang bị kiến thức, mà quan trọng hơn là khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường, khát vọng vươn lên thoát nghèo trong mỗi sinh viên.
Ngoài chương trình đào tạo bắt buộc theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Học viện còn lồng ghép nhiều hoạt động sinh hoạt chuyên đề, trải nghiệm thực tế, thành lập các câu lạc bộ khởi nghiệp… nhằm tạo động lực để các em tự tin vào bản thân, tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc mình.
Quan trọng hơn, các chương trình trải nghiệm giúp sinh viên thay đổi cách tiếp cận về những khó khăn, thách thức của vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Từ đó hình thành tư duy chủ động, sáng tạo, biết biến khó khăn, thách thức về điều kiện tự nhiên, hạ tầng, thị trường thành lợi thế, cơ hội để phát triển kinh tế - xã hội cho gia đình, cộng đồng và địa phương.
Qua quá trình học tập và trải nghiệm, trong mỗi sinh viên dần hình thành khát vọng cống hiến, ý thức trách nhiệm xã hội và mong muốn quay trở lại quê hương sau khi tốt nghiệp để đóng góp trí tuệ, sức trẻ cho sự phát triển bền vững của vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Một minh chứng sinh động là triển khai Chương trình Khởi nghiệp cho sinh viên theo Đề án 1665 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Hàng năm, Học viện đều có tổ chức cho sinh viên đi học tập tại các cơ sở, doanh nghiệp ở vùng dân tộc thiểu số để học hỏi, trải nghiệm kiến thức về khởi nghiệp. Gần nhất, cuối tháng 11/2025, Học viện tổ chức, đưa sinh viên đi trải nghiệm thực tế tại Làng Du lịch Thái Hải - làng truyền thống của dân tộc Tày (Thái Nguyên). Đây là một trong 10 làng du lịch tốt nhất thế giới năm 2022, được Tổ chức Du lịch thế giới vinh danh. Tại đây, sinh viên Học viện không chỉ được trực tiếp quan sát, học hỏi mô hình bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống gắn với phát triển du lịch cộng đồng, mà còn nhận diện rõ hơn tiềm năng của chính quê hương mình. Qua đó, các em hiểu rằng việc giữ gìn, khai thác hợp lý bản sắc văn hóa dân tộc không chỉ là trách nhiệm, mà còn là hướng đi quan trọng để quảng bá hình ảnh địa phương, phát triển sinh kế và thúc đẩy kinh tế - xã hội cộng đồng một cách bền vững.
Từ giảng đường đến mô hình khởi nghiệp vì cộng đồng
Thực tế cho thấy, nhiều ý tưởng giảm nghèo, khởi nghiệp đã được hình thành ngay từ quá trình học tập tại Học viện Dân tộc.
Tiến sĩ Thu chia sẻ, hiện nay, ngành đào tạo trọng tâm của Học viện Dân tộc là Kinh tế giáo dục vùng dân tộc thiểu số, với 2 hướng ngành ngành: Kinh tế giáo dục và Quản trị giáo dục chuyên sâu. Vì vậy trong toàn bộ quá trình đào tạo, Học viện luôn xác định rõ mục tiêu gắn kết chặt chẽ giữa giảng dạy với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số, nơi chính các em sinh viên sinh ra và lớn lên.
“Mục tiêu xuyên suốt của Học viện là sau khi tốt nghiệp, sinh viên không chỉ có kiến thức chuyên môn mà còn đủ năng lực, bản lĩnh để quay trở về quê hương khởi nghiệp, tham gia phát triển kinh tế - xã hội, từng bước làm giàu chính đáng cho gia đình và cộng đồng”, cô Thu bộc bạch. Thực tế cho thấy, từ định hướng đào tạo này, nhiều sinh viên của Học viện đã và đang mạnh dạn triển khai các ý tưởng khởi nghiệp gắn với ngành học và lợi thế địa phương. Tiêu biểu là sinh viên Sùng A Cha, dân tộc Mông, hiện đang theo học Khóa 4 tại Học viện Dân tộc.
Em Sùng A Cha - sinh viên khóa 4, Học viện Dân tộc.
Xuất phát từ mong muốn góp phần giúp bà con quê hương thoát nghèo, Sùng A Cha đã xây dựng ý tưởng “Lan tỏa đặc sản khoai sọ tím Tủa Chùa (Điện Biên) đến với Thủ đô”. Trước mắt, mô hình tập trung hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm khoai sọ tím cho người dân địa phương, từng bước tạo đầu ra ổn định cho nông sản, sau đó hướng tới mở rộng thị trường trên phạm vi cả nước. Dù mới ở giai đoạn khởi đầu, mô hình này đã bước đầu thu hút sự quan tâm của cộng đồng và cho thấy tiềm năng phát triển.
Theo đánh giá của Học viện, với sự quyết tâm, nỗ lực của sinh viên, cùng sự hướng dẫn, đồng hành sát sao của đội ngũ giảng viên, những ý tưởng khởi nghiệp như của em Sùng A Cha không chỉ có cơ hội thành công, mà còn góp phần lan tỏa tinh thần tự lực, tự cường, khơi dậy khát vọng vươn lên làm giàu từ chính lợi thế của vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Thi Thi
Nguồn Giáo Dục VN : https://giaoduc.net.vn/hoc-vien-dan-toc-dao-tao-cac-nganh-dac-thu-gan-voi-giam-ngheo-ben-vung-post256909.gd