Bởi do mê muội, quên mất Phật tánh sẵn có nơi mình, lao ra tạo vô lượng nghiệp nhân, để rồi trầm luân sanh tử, không có ngày cùng. Cũng vì tính cách khiếp nhược yếu đuối, luôn trông chờ ỷ lại vào tha lực bên ngoài nên chưa dám một phen cương quyết tiến thẳng vào đạo lộ giác ngộ giải thoát. Hiểu rõ bẩm tánh của chúng sanh, Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải đã răn dạy hành giả tu Phật rằng:
“Phàm người học đạo nếu gặp các thứ khổ vui, việc vừa ý không vừa ý, tâm không lui sụt, chẳng để tâm đến danh dự lợi dưỡng ăn mặc, chẳng tham tất cả công đức lợi ích, không bị các pháp thế gian buộc ngại, không thân mến khổ vui, tâm hằng bình đẳng, ăn cơm hẩm cốt nuôi mạng sống, mặc áo vá chỉ để ngừa lạnh; ngơ ngơ như ngu như điếc, sẽ được ít phần tương ưng. Nếu trong tâm ham học rộng biết nhiều, cầu phước cầu trí, đều là ở trong sanh tử, đối với lý đạo thật vô ích, lại bị gió hiểu biết thổi trôi dạt trở lại trong biển sanh tử”.
Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải là một bậc tác gia lớn trong nhà thiền. Cuộc đời tu đạo, hành đạo, hóa đạo của ngài luôn là tấm gương sáng cho hàng hậu học noi theo tu tập. Lời dạy của ngài rất phổ biến trong tùng lâm. Chư Tổ xưa cho đến các bậc thiện tri thức nay vẫn thường dùng lời dạy này để kích dương, nhắc nhở hành giả tinh tấn tu hành.
Người muốn học đạo giác ngộ giải thoát, khi đối diện với các thứ khổ vui, tâm chẳng nên dao động. Không vì cảnh khổ mà sợ hãi thối thất tâm Bồ-đề, không vì cảnh vui mà đắm chìm trong đó. Dù khổ hay vui, vừa ý hay không vừa ý vẫn luôn bình thản, an nhiên tiến tới. Trong kinh Pháp bảo đàn, Lục tổ Huệ Năng nói: “Vô trụ là bản tánh của con người đối với tất cả sự vật, thiện ác, tốt xấu, kẻ thù, người thân trên thế gian, cho đến lúc bị người nói xấu, khi dễ, đều cho là không, chẳng nghĩ trả thù, niệm niệm chẳng nghĩ ngoại cảnh”.
Tổ Bá Trượng vẽ nên một bức tranh người học đạo sống giản dị, rau cháo qua ngày, đạm bạc mà tu hành. Bởi người xuất gia đệ tử Phật đã cắt ái từ sở thân, buông xả danh vọng địa vị, bước vào chốn già-lam thanh tịnh, lẽ nào lại để tâm đến danh văn lợi dưỡng, ăn mặc hưởng thụ...? Cho đến các công đức hữu lậu, chư Phật chư Tổ còn dạy đừng gầy dựng vì còn vướng mắc trong vòng nhân quả luân hồi, không đem đến giải thoát sanh tử. Thế nên, Tổ dạy chúng ta đừng để các pháp thế gian buộc ngại, đừng tham mến khổ vui, mà bình đẳng với tất cả.
Đối với người tu hành, cơm ăn áo mặc chỉ là phương tiện để nuôi mạng sống, nên không quan trọng việc ăn ngon mặc đẹp, chỉ đủ dùng là được.
Xưa có vị Tăng hỏi Sơ tổ Trúc Lâm:
- Thế nào là gia phong của Hòa thượng?
Sơ tổ đáp:
- Áo rách che mây sáng ăn cháo,
Bình xưa tưới nguyệt, tối uống trà.
Học nhân hỏi về gia phong của Sơ tổ, tức là chỗ sống, chỗ dụng tâm hàng ngày của ngài thế nào? Tổ đáp rất dung dị: Ngày ngày ta mặc áo rách, sáng ăn cháo, tối uống trà. Bình thường, giản dị, có cao siêu chi! Nhưng trong cái bình thường ấy toát lên nét siêu thoát của vị Tăng nhàn đầu núi. Ăn rau cháo qua ngày mà lòng sảng khoái tiêu dao. Mặc áo rách mà tâm không vướng bận, không ưu tư. Từ một bậc đế vương uy quyền tột đỉnh, ngài đã từ bỏ tất cả để làm một sơn tăng. Sáng vui với cỏ nội mây ngàn, tối bầu bạn với trăng sao. Bần mà thanh. Nghèo mà sạch. Bình thường tâm thị đạo.
Tổ dạy người tu phải như ngu như điếc, gặp cảnh thuận không vui, gặp cảnh nghịch không buồn, như thế mới mong có được chút ít phần tương ưng với đạo giải thoát. Bởi vì tất cả những sự học trên thế gian để cầu phước lớn trí rộng đều là nhân tạo tác đi trong sanh tử, mà người tu là người cầu giải thoát sanh tử, nên sự học tập như thế đối với đạo thật vô ích.
Tuy nhiên, đó là cách nói của bậc đã chứng ngộ. Với hành giả đang thực tập công phu, nếu không học, không có trí tuệ thì làm sao biết cách thức tu hành để giải thoát sanh tử? Thế nhưng phải luôn tâm niệm rằng học để có kiến thức, để biết đường lối tu đúng đắn, chứ không phải học rồi chấp vào đó, làm thành sở tri chướng. Để rồi bị chính những cái chướng sở tri ấy đẩy mình vào biển sanh tử, rốt cuộc loay hoay mãi vẫn không làm sao ra khỏi.
Lời dạy của Thiền sư Bá Trượng dù trải qua năm tháng lâu xa, nhưng vẫn còn vang vọng đến tận hôm nay, trong tâm khảm của tất cả hành giả tu Phật, nhất là đối với người xuất gia hiện tại vẫn có giá trị thực tế nhất định. Trong bối cảnh xã hội hiện nay, khi giá trị vật chất luôn đi trước giá trị tinh thần, người học đạo thật khó giữ vững tâm tu hành trước danh văn lợi dưỡng. Tuy nhiên, sự phát triển của xã hội hoàn toàn không có lỗi, lỗi tại tâm mình. Với sự phát triển của xã hội đương thời, người tu không cần thiết phải mặc áo vá, ăn cơm hẩm như chư Tổ ngày xưa, nhưng đừng để lợi dưỡng trói buộc. Tùy duyên tiêu nghiệp cũ, hồn nhiên vận y xiêm.
Một người tu hành tuy sống đời thanh bần, đạm bạc nhưng giữ gìn giới luật tinh nghiêm, công phu chắc thực, nội tâm thanh tịnh, trí tuệ khai mở, luôn hướng về giác ngộ giải thoát, đó mới chính là công đức mà người tu cần gầy dựng. Lượm một cục đá trên đường đi để người khác không vấp ngã là công đức. Giúp đỡ chư huynh đệ đồng môn trong tu học, quan tâm săn sóc khi huynh đệ bệnh cũng là công đức... Tự mình nỗ lực tinh tấn tu học, trau dồi giới đức để có thể kiên tâm vững chí trước sự biến đổi của xã hội, trước những thịnh suy thăng trầm. Được vậy chúng ta mới có thể đi hết con đường Phật đạo.
Lời dạy của Thiền sư Bá Trượng là hồi chuông cảnh tỉnh cho người học đạo từ xưa đến nay, luôn nhớ chí nguyện tu hành mà quyết tâm vượt khỏi trần lao, nhận lại tánh Phật sẵn có nơi mình. Chúng ta là đệ tử Phật, ý thức được cảnh khổ của người xa quê, một lòng quyết chí trở về cố hương, cần gầy dựng cho mình một sự tu học xứng đáng, sao cho tâm nguyện tu hành mỗi ngày mỗi thăng hoa. Nắm vững giáo lý Phật dạy, giữ vững chí nguyện tu hành, từng tấc dạ kiên quyết, từng bước đi lên, dù dốc ngược đường xa vẫn không hề nao núng. Đây chính là di huấn của chư Phật chư Tổ dành cho hàng hậu học đời sau.
An Lộc/Báo Giác Ngộ