Quyết định nêu rõ, Chủ tịch UBND các cấp nơi có Di sản văn hóa phi vật thể được đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình, thực hiện việc quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa.
Theo các nguồn tài liệu cho biết, vào thế kỷ XVIII, Hội Lim đã trở thành một hội lớn phát triển tới quy mô hội hàng tổng - tổng Nội Duệ. Khi đó tổng Nội Duệ bao gồm 6 xã, phường: xã Lũng Giang, Nội Duệ (Đình Cá, Lộ Bao), Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Xuân Ô và phường hát cửa đình Tiên Du (sau là Nội Duệ Đông). Đặc biệt, Hội Lim còn gắn liền với tên tuổi các danh nhân lịch sử văn hóa vùng Lim như: Đỗ Nguyễn Thụy, bà Mụ Ả... là những người có ảnh hưởng trực tiếp và có vai trò to lớn trong việc giữ gìn tập tục, mở mang hội hè vùng Lim.
Lễ hội Lim diễn ra vào ngày 12 và 13 tháng Giêng hằng năm (Ảnh: Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch)
Lễ hội Lim diễn ra vào ngày 12 và 13 tháng Giêng hằng năm. Vào ngày lễ hội, người dân vùng Bắc Ninh - Kinh Bắc và du khách thập phương lại nô nức trảy Hội Lim để được hòa mình vào không gian lễ hội đặc sắc, nghe các liền anh, liền chị quan họ cất lên những câu ca mượt mà, đằm thắm. Đây không chỉ là một lễ hội truyền thống thông thường, mà còn là một không gian văn hóa sống động, thể hiện rõ nét những giá trị lịch sử cốt lõi và mối quan hệ bền chặt giữa các làng khi thực hành di sản Dân ca Quan họ Bắc Ninh. Các hình thức hát như hát canh, hát trên thuyền, hát lán, hát đối đáp... không chỉ phô diễn các lề lối, bài bản cổ mà còn tạo ra một môi trường lý tưởng để di sản được truyền dạy, thực hành liên tục.
Không chỉ là một lễ hội văn hóa, Hội Lim còn là một bảo tàng sống về tín ngưỡng, phong tục và âm nhạc dân gian. Qua từng nghi lễ, từng câu hát, người xem có thể cảm nhận rõ bản sắc tinh tế, sự gắn kết cộng đồng và chiều sâu văn hóa của vùng đất Kinh Bắc. Với giá trị lịch sử, nghệ thuật và tinh thần cộng đồng sâu sắc, Hội Lim xứng đáng là biểu tượng văn hóa tiêu biểu của Bắc Ninh nói riêng và văn hóa Việt Nam nói chung.
T.T