Tam quan chùa Đại Bi về đêm.
Sau thời gian tu bổ theo nguyên tắc “tôn trọng nguyên gốc, can thiệp tối thiểu”, cổ tự Đại Bi, xã Dương Hòa (Hà Nội) chính thức “hồi sinh”, lưu giữ một di sản kiến trúc - nghệ thuật độc đáo của Việt Nam.
Giữa lớp trầm tích văn hóa vùng Quế Dương, chùa Đại Bi (còn gọi là chùa Bãi hay chùa Thượng) hiện lên như cột mốc tâm linh bền bỉ, nơi lưu giữ linh hồn của ngôi làng cổ nghìn năm tuổi. Sau dự án trùng tu do Nhà nước bảo trợ, ngôi chùa cổ không chỉ là nơi tu hành, mà còn là niềm tin, ký ức, bản sắc, lưu giữ trọn vẹn linh hồn vùng văn hóa Cát Quế xưa.
Di sản quý trong ngôi cổ tự gần 700 năm tuổi
Theo sử liệu, Quế Dương là một vùng đất cổ đặc biệt, dưới lớp đất là dấu tích văn hóa Phùng Nguyên cách ngày nay khoảng 2.500 năm, vẫn còn lưu lại qua các di chỉ khảo cổ Vĩnh Quang.
Trên nền đất ấy, dưới triều nhà Trần vào năm Long Khánh thứ 7 (1373), chùa Đại Bi được xây dựng. Cùng với chùa Vĩnh Phúc, chùa Đại Bi trở thành trung tâm tín ngưỡng quan trọng, là nơi diễn ra lễ hội, lưu truyền giáo lý và neo giữ ký ức cộng đồng.
Toàn cảnh chùa Đại Bi mang phong cách kiến trúc Bắc Bộ truyền thống, pha lẫn dấu ấn tu sửa qua các thời đại. Tam quan kiêm gác chuông hai tầng, tám mái, với gian giữa treo quả chuông lớn, hai bên là khánh đồng, vẫn giữ được kiến trúc nguyên gốc. Tiền đường từng có mặt bằng hình chữ “Đinh”, nay được bố trí theo kiểu chữ “Công” tạo sự cân đối, trang nghiêm.
Hệ thống cột gỗ lim nguyên khối, mái ngói rêu phong, nền đá ong, kết cấu rường kẻ chồng rường… phản ánh kỹ thuật xây dựng truyền thống. Các chi tiết chạm khắc long, ly, quy, phụng, hoa sen, tứ linh… vô cùng tinh xảo, gợi lại mỹ thuật dân gian và sự khéo léo của nghệ nhân xưa.
Bên trong Thượng điện bài trí các pho tượng Phật, Hộ pháp theo chiếu thờ cổ truyền. Nổi bật nhất là bệ đá hoa sen thời Trần, được xem như “trái tim” ngôi cổ tự. Bệ đá dài 2,63m, rộng 1,70m, cao 1,67m, chạm hình sư tử, kỳ lân, Garuda và nhiều linh thú độc đáo. Những đường nét mạnh mẽ, dứt khoát nhưng vẫn hài hòa thể hiện tinh thần điêu khắc xưa.
Bệ đá không chỉ mang giá trị tín ngưỡng, mà còn là minh chứng sống động cho nghệ thuật điêu khắc, mỹ thuật và lịch sử Phật giáo Việt Nam. Các chuyên gia bảo tồn nhận định, bệ đá chính là yếu tố quan trọng nhất quyết định hồ sơ xếp hạng di tích quốc gia của chùa Đại Bi.
Ngoài ra, chùa Đại Bi còn lưu giữ nhiều di vật giá trị qua các triều đại. Trên tam quan - gác chuông, quả chuông cổ đúc năm Cảnh Thịnh thứ 6 (1798) vẫn ngân vang tiếng chuông mỗi dịp lễ. Khánh đồng, hương án gạch nung thời Lê - Mạc, hệ thống tượng thờ sơn son thếp vàng… tất cả đều thể hiện sự liên tục của đời sống tín ngưỡng qua các thời kỳ Trần - Lê - Mạc - Nguyễn.
Những hiện vật này không chỉ minh chứng cho nghệ thuật tạo hình tinh xảo, mà còn cho thấy sự gắn kết giữa cộng đồng và di sản qua nhiều thế hệ. Qua nhiều thế kỷ, chùa chứng kiến biết bao thăng trầm lịch sử và những biến đổi của thời gian, nhưng vẫn tồn tại như một nhân chứng lưu giữ linh hồn làng quê.
Hệ thống tượng Phật cổ tại chùa Đại Bi được đánh giá độc đáo, tính thẩm mỹ cao.
'Bệ đá hoa sen' tại Thượng điện chùa Đại Bi.
Chuông cổ ngân vang, ký ức sống lại
Cổ tự Đại Bi vừa là công trình tôn giáo vừa là bảo tàng nghệ thuật dân gian sống động, thể hiện sự giao thoa giữa tín ngưỡng và mỹ thuật truyền thống. Với những giá trị đó, năm 1997 Bộ VH,TT&DL đã xếp hạng Di tích kiến trúc - nghệ thuật cấp quốc gia đối với chùa Đại Bi.
Trải qua thời gian, nhiều hạng mục chùa xuống cấp nghiêm trọng. Nền, tường, mái, cột gỗ, kết cấu rường rui đều bị hư hại, cảnh quan sân chùa, tường bao, hệ thống thoát nước không đáp ứng nhu cầu. Để bảo tồn di sản, tháng 9/2023, dự án tu bổ tôn tạo chùa Đại Bi được triển khai, với nguồn kinh phí từ ngân sách Nhà nước và sự đóng góp của tăng ni, phật tử và người dân Quế Dương.
Dự án tu bổ, tôn tạo chùa Đại Bi kéo dài hơn 2 năm với mức đầu tư trên 12 tỷ đồng từ nguồn ngân sách Nhà nước và các nguồn vốn hợp pháp khác.
Sư thầy Thích Đàm Lượng - trụ trì nhà chùa, cho biết, các hạng mục tu bổ gồm: Tam bảo, Tam quan, Thượng điện, Tiền đường, nhà Tổ, tường rào, lát sân, hạ tầng kỹ thuật. Mỗi viên gạch, cột gỗ, mảng chạm đều được phục hồi theo nguyên tắc “tôn trọng nguyên gốc, can thiệp tối thiểu”, đảm bảo giữ nguyên giá trị lịch sử và kiến trúc. Công tác tu bổ không chỉ khôi phục vật chất, mà còn hồi sinh ký ức, giữ lại linh hồn của di tích.
Ngày khánh thành, người dân Quế Dương chứng kiến sự hồi sinh của linh hồn quê hương. Tiếng chuông ngân vang như nối liền quá khứ - hiện tại - tương lai, không chỉ là khoảnh khắc để mỗi người trở về ký ức, mà còn làm sống lại một di sản quý báu mà cha ông đã tạo dựng gần 700 năm trước.
Chùa Đại Bi nay đã khang trang nhưng vẫn giữ được nét cổ kính, thanh tịnh vốn có của chùa xưa. Việc tu bổ tôn tạo không chỉ nhằm giữ gìn công trình lịch sử giữa bối cảnh đô thị hóa nhanh, mà còn giúp thế hệ trẻ hiểu về nguồn cội, phong tục, tín ngưỡng, tinh thần văn hóa quê hương. Đồng thời, kết nối cộng đồng qua các dịp lễ hội, nghi lễ. Thúc đẩy cổ tự trở thành điểm đến hấp dẫn đối với người yêu văn hóa – lịch sử Thủ đô.
Chùa Đại Bi hôm nay là biểu tượng sống động cho ký ức làng Quế Dương, kết tinh văn hóa, tín ngưỡng và tinh thần cộng đồng. Dự án tôn tạo không chỉ giúp ngôi chùa hồi sinh về mặt vật thể, mà còn làm sống lại phần hồn cốt của di sản, tiếp nối mạch nguồn lịch sử nghìn năm của trầm tích văn hóa Quế Dương.
Bước sang giai đoạn bảo tồn và phát huy giá trị di sản, thời gian tới địa phương và các ban liên quan sẽ tăng cường công tác quản lý, hướng dẫn hỗ trợ về chuyên môn trong bảo tồn, đảm bảo di tích được quản lý đúng quy định. Đồng thời, xây dựng kế hoạch gắn với việc phát huy giá trị “Bệ đá hoa sen” sau khi được công nhận là bảo vật quốc gia; nghiên cứu kết nối chùa Đại Bi với các di tích trong vùng, hình thành chuỗi du lịch văn hóa tâm linh - lịch sử đặc trưng vùng Quế Dương nói riêng và Thủ đô Hà Nội nói chung.
Trần Hòa