Hồi ức về vị tướng là cận vệ của Bác Hồ

Hồi ức về vị tướng là cận vệ của Bác Hồ
3 giờ trướcBài gốc
Ký ức về người cha thân yêu
Ngôi nhà trên phố Phan Đình Phùng (Hà Nội) có nhiều kỷ niệm về vị tướng tài ba. Nơi đây, anh Đoàn Nam Tiến cũng lưu giữ nhiều kỷ vật, như những bức ảnh, cuốn sách, tư liệu về cha. Ông Tiến kể: Gần như suốt cả cuộc đời, cha tôi lăn lộn ngoài chiến trường, lập được nhiều chiến công. Thế nhưng, điều các con, cháu nhận thấy ở ông là sự khiêm nhường, bình dị của cha. Trong suy nghĩ của ông dường như không hề có sự phân biệt chức vị. Ông trân trọng tất cả mọi người, đối xử chân thành, hòa nhã, từ bà con hàng xóm, đến những người lính, cấp dưới, những người bạn thân từng cùng vào sinh ra tử. Chúng tôi cũng rất kính trọng các vị khách của cha tôi”.
Anh Đoàn Nam Tiến chia sẻ ký ức về cha.
Anh Tiến kể: Cả cuộc đời binh nghiệp, cha tôi luôn coi "Chiến trường là nhà, đất nước là quê hương". Mọi chiến trường từ bắc vào nam, những trận đánh ác liệt nhất, lừng lẫy nhất, từ chiến thắng Điện Biên Phủ 1954 tới ngày Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước năm 1975, đều có dấu ấn chỉ huy chiến đấu của cha tôi. Sau này, phải đến khi về hưu, ông mới có nhiều thời gian dành cho gia đình. Chính tôi là người thường xuyên chở cha đi thăm bạn bè.
Trung tướng Nam Long tên thật là Đoàn Văn Ưu, người dân tộc Tày ở xã Đề Thám, huyện Hòa An, nay là phường Thục Phán, tỉnh Cao Bằng. Noi gương người anh họ Hoàng Đình Giong, một cán bộ lãnh đạo Đảng ở Cao Bằng thời ấy, ông sớm giác ngộ từ thuở 15, 16. Được kết nạp vào Đoàn Thanh niên Dân chủ tháng 2 năm 1937, ông làm liên lạc cho Xã ủy rồi Tổng ủy đến năm 1941, thường đảm nhận việc chuyển thư từ, tài liệu cho cách mạng.
Năm 1941, ông là một trong số những thanh niên ưu tú được Bác Hồ chọn đi học tại Trường quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc) lấy tên là Vũ Nam Long để bảo vệ bí mật trong quá trình hoạt động cách mạng.
Với truyền thống hiếu học từ gia đình, ngay từ nhỏ, cha tôi đã nhận thức rất rõ đất nước đang bị chia cắt Bắc - Trung - Nam và ông có một ước mơ thống nhất đất nước, non sông nối liền một dải. Vậy nên ông mới lấy tên là Nam (nước Việt Nam) Long (Đồng bằng sông Cửu Long). Ông là chính trị viên Trung đội 2, Trung đội 4 Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân – tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
“Có một niềm vinh dự cực lớn lao cho gia đình, đó là giữa năm 1945, cha tôi được điều về làm đội trưởng đội bảo vệ Bác Hồ ở Tân Trào, sau đó bảo vệ Bác về Thủ đô Hà Nội đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ngày 2/9/1945. Nhiệm vụ đó vô cùng quan trọng và mang ý nghĩa lịch sử gắn với vận mệnh của cả dân tộc. Cha tôi cùng các đồng đội đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, để lúc này, chúng ta đang được sống trong thời khắc trọng đại, kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập nước", anh Tiến tự hào.
Anh Tiến chia sẻ, cả cuộc đời cha mình cống hiến cho đất nước, khi về hưu ông sống giản dị, khiêm nhường.
Anh Đoàn Nam Tiến cũng kể một câu chuyện xúc động. Năm 1973 khi anh là một cậu bé 7 tuổi. Cha anh từ trong chiến trường ra Hà Nội cùng một số đồng đội. Về nguyên tắc, khi tới nơi, các đồng chí đều bỏ súng ra để kiểm tra. Lúc đó, anh còn quá nhỏ, chưa hiểu chuyện, thấy súng thì rất lạ. Đôi tay bé tí của mình cầm khẩu súng hướng vào một người cấp dưới của cha, súng đương nhiên không có đạn. Vậy mà rất nhanh, vị tướng gạt phăng khẩu súng xuống đất, bạt tai con, rồi nói: Súng chỉ nhằm vào kẻ thù, còn đây là đồng đội của cha.
Một kỷ niệm nữa với cha là khi anh Tiến học lớp 7, chuẩn bị được vào Đoàn: "Năm đó tôi cố gắng học tập tốt, tích cực tham gia các phong trào thi đua của trường lớp nên được kết nạp Đoàn. Tôi cảm thấy oai lắm, khai trong tờ lý lịch: Bố là tướng Nam Long. Cụ đọc rồi bảo bỏ đi, khiến tôi chẳng hiểu nổi vì sao. Giải thích cho tôi, cụ bảo, con khai lại đi, bố Nam Long, nghề nghiệp bộ đội, đừng có ghi tướng tá gì vào đây. Lúc đó tôi vẫn chưa hiểu được hết ý nghĩa. Sau này, tôi mới cảm nhận rõ về cha. Trong suốt cuộc đời, cha tôi chỉ nghĩ mình là Bộ đội cụ Hồ".
Một cuộc đời hoạt động sôi nổi
Cách mạng tháng Tám thành công chưa bao lâu thì thực dân Pháp gây hấn ở Sài Gòn. Ngày 26/9, một đơn vị Việt Minh tại Hà Nội đã sát nhập với Chi đội 3 và 4 Quân giải phóng từ Việt Bắc về được lệnh “Nam tiến” đánh giặc. Khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông Nam Long đã nhờ Đại tướng xin cho ông “Nam tiến” đánh giặc. Vào đến Vinh, ông được Đại tướng Võ Nguyên Giáp giao cho làm Chính trị viên Chi đội 3 “Nam tiến”, chi viện cho mặt trận phía Nam thay cho ông Nguyễn Văn Rạng đi làm nhiệm vụ khác. Tới Nha Trang ông gặp người anh họ là ông Hoàng Đình Giong (tức Vũ Đức) (sau này hy sinh trong kháng chiến chống Pháp) và được giao cho đem Chi đội 3 vào thẳng phía Bắc Sài Gòn cùng với ông Phúc Thơ (bí danh của ông Mông Văn Vẩy). Vào đến Sài Gòn, ông Phúc Thơ được cử đi giữ chức vụ Ủy viên Quân sự miền Đông Nam Bộ, tướng Nam Long được cử làm Chính trị viên kiêm Chỉ huy trưởng Chi đội 3.
Trung tướng Nam Long thời trẻ. Ảnh tư liệu
Chi đội 3 “Nam tiến” đã lập được nhiều chiến công, đi vào lịch sử, là đội Nam Tiến đầu tiên được nhân dân Nam Bộ yêu mến đặt tên là "Chi đội Nam Long" và cái tên tướng Nam Long cũng bắt đầu từ đó. Do trang bị thiếu thốn, Chi đội lùi ra Xuân Lộc phối hợp với du kích người Thượng chặn quân địch từ Biên Hòa đánh ra. Tiếp theo, chi đội 3 do tướng Nam Long chỉ huy phối hợp với các đơn vị chi viện từ Bắc vào bao vây quân Nhật giải phóng thị xã Phan Thiết. Sau đó, chi đội Nam Long tiến ra phối hợp với một phân đội của tỉnh Quảng Ngãi cùng với du kích người Chăm, Cơ Ho…tấn công quân Nhật, giải phóng thị xã Phan Rang (24/11/1946). Sau hơn một tháng chiến đấu, chi đội Nam Long được lệnh về Tháp Chàm củng cố rồi lên Tây Nguyên chặn địch không cho đánh nống ra Ninh Hòa, Pleiku…
Từ đầu năm 1953 đến năm 1956, ông lần lượt được bổ nhiệm làm Tham mưu trưởng, Đại đoàn phó rồi Đại đoàn trưởng Đại đoàn 304. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, trên cương vị Tham mương trưởng, Đại đoàn 304 đã bao vây kiềm chế và tiêu hao quân Pháp ở Phân khu Hồng Cúm, không cho quân Pháp chi viện cho khu Mường Thanh, chặn đường tiếp tế và không cho quân Pháp trốn sang Lào. Đồng thời tiêu diệt và bắng sống toàn bộ 2.000 quân Pháp ở Hồng Cúm định tháo chạy về Thượng Lào. Chiến công đó đã góp phần vào sự toàn thắng của trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ - một trong những trận tiêu diệt lớn và gọn nhất trong lịch sử chiến đấu của Quân đội Nhân dân Việt Nam.
Miền Bắc được giải phóng, ông được cử sang học tập ở Học viện Voroshilov (Liên Xô cũ) từ năm 1956 đến năm 1959. Từ năm 1959 đến 4/1961, ông là Tham mưu trưởng Bộ Tư lệnh Pháo binh. Từ tháng 4/1961 đến 4/1962, ông là Phó Tư lệnh Quân khu Tả Ngạn. Từ tháng 5/1966 đến 4/1973 ông được cử vào chiến đấu ở miền Nam trên cương vị Phó Tư lệnh B4. Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, ông chỉ huy cách quân đánh vào thành phố Huế trong khi người đồng hương của ông là tướng Đàm Quang Trung chỉ huy đánh Quảng Trị.
Tháng 4/1975, với tư cách là Đặc phái viên Bộ Quốc phòng, ông cùng các Quân đoàn chủ lực tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh và có mặt ở Dinh Độc Lập vào những giờ phút đầu tiên tiếp nhận sự đầu hàng của Dương Văn Minh. Suốt từ năm 1974 đến năm 1986, ông là Phó viện trưởng Học viện Quân sự cấp cao (nay là Học viện Quốc phòng).
Đồng chí Nam Long (bên trái). Ảnh tư liệu
Từ năm 1989, ông được nghỉ hưu. Tham gia Đại hội đại biểu toàn quốc Hội Cựu chiến binh Việt Nam lần thứ nhất năm 1990, ông là một thành viên tích cực, góp phần vào thành công của Đại hội. Từ năm 1994, ông là Trưởng Ban liên lạc truyền thống Cựu chíen binh Sư đoàn 304 tại thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất vào 1/7/1999. Hơn 50 năm hoạt động cách mạng trong đó có đến 45 năm là các bộ Quân đội Nhân dân Việt Nam từ những ngày đầu thành lập, cuộc đời của tướng Nam Long là một cuộc đời chiến đấu sôi nổi và liên tục. Luôn luôn đi đầu, luôn luôn có mặt ở những nơi chiến sự ác liệt nhất.
Giang Nam
Nguồn VHPT : https://vanhoavaphattrien.vn/hoi-uc-ve-vi-tuong-la-can-ve-cua-bac-ho-a29810.html