Hơn hai thế kỷ vẫn nghe tiếng Nguyễn Du

Hơn hai thế kỷ vẫn nghe tiếng Nguyễn Du
2 giờ trướcBài gốc
Có lẽ không nhiều nhân vật trong lịch sử văn hóa Việt Nam để lại dấu ấn sâu thẳm như ông, người mang nỗi đau nhân thế kết tinh thành tuyệt tác “Truyện Kiều”, biến mọi biến cố đời mình thành thớ sợi rung lên cùng vận nước.
Tôi về Tiên Điền vào một buổi chiều cuối thu, khi mặt trời vừa tắt sau rặng phi lao, còn gió thì rì rầm như đang kể lại điều gì từ thời quá vãng. Vùng đất Nghi Xuân (Hà Tĩnh) trầm mặc, những lối nhỏ phủ lá bàng khô, những bờ tre vút lên bên dòng Lam xanh ngắt. Ở đó, người ta nói rằng chạm vào bước chân Nguyễn Du là chạm vào cái run rẩy của lịch sử, một lịch sử không ồn ào chiến công mà lặng lẽ thấm vào đời sống của muôn kiếp nhân gian.
Nguyễn Du - dấu chân giữa biến thiên thời cuộc
Nguyễn Du (1765-1820) sinh ra trong một gia đình đại quý tộc nhưng cuộc đời lại nghiệt ngã hơn bất kì phận người bình thường nào. Cha ông, cụ Hoàng giáp Nguyễn Nghiễm, từng làm Tể tướng triều Lê là ánh hào quang mà cậu bé Nguyễn Du từng vin vào để hiểu về chữ “trung”. Nhưng rồi cha mất sớm, mẹ ông cũng theo về cõi khác khi ông còn chưa kịp hiểu hết nỗi cô độc của trẻ mồ côi. Khi phong kiến Lê - Trịnh rạn nứt, biến loạn liên miên, Nguyễn Du đi giữa những đổ vỡ, tuổi trẻ của ông bị xé rách bởi sự lỡ dở của thời cuộc.
Chính quãng đời ấy đã gieo vào ông nỗi “thương thân thương người” sâu sắc. Bởi chỉ những ai từng trải qua mất mát, từng chứng kiến trăm nghìn kiếp người trôi dạt mới viết được những câu Kiều đầy máu của thân phận:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Có lúc đọc lại những câu thơ này, tôi tự hỏi: liệu có nhà văn, nhà thơ nào của dân tộc gánh trên vai nỗi buồn của cả thời đại nhiều đến vậy? Và phải chăng chính sự bầm dập ấy đã khiến Nguyễn Du trở thành Nguyễn Du - một Nguyễn Du không thể lặp lại.
Tượng đại thi hào Nguyễn Du tại khu tưởng niệm ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh.
Đi qua các trạm dấu chân Nguyễn Du, ta thấy ông không chỉ đi giữa địa lý mà đi giữa số phận. Từ những năm tháng “mười năm gió bụi” ở Thái Bình, Sơn Nam, đến khi làm quan bất đắc dĩ triều Nguyễn, ông mang theo nỗi băn khoăn không dứt về thế sự. Người đời thường kể rằng ông hay đứng lặng ở bến sông, nơi thuyền buông neo, mắt nhìn xa xăm như đang đối thoại với những linh hồn lang thang. Những chuyến đi sứ Trung Hoa là dấu mốc khiến tâm hồn Nguyễn Du thêm trĩu nặng. Đứng trước mồ Đạm Tiên, ông viết:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Đó không chỉ là câu hỏi về sự vô thường, mà là nỗi cô đơn tột cùng của người nghệ sĩ: ba trăm năm sau, còn ai khóc ông? Nhưng rồi lịch sử ấy thật diệu kỳ: hai trăm năm đã trôi, không phải chỉ một vài người khóc, mà cả dân tộc nhớ thương ông. Những người trẻ thuộc làu từng câu Kiều, những cụ già chống gậy vẫn khe khẽ ngân nga câu lẩy đầy thương nhớ, những học giả trên khắp thế giới nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn Du như một biểu tượng văn học Đông Á.
“Truyện Kiều” - tấm gương soi thân phận Việt
Đi giữa khu di tích Tiên Điền hôm nay, tôi dừng lại trước căn nhà nhỏ với hàng cau đứng lặng. Trong không gian mênh mang ấy, tôi bỗng nhớ đến lời nhà nghiên cứu Nguyễn Du từng nói: “Truyện Kiều” không chỉ là tác phẩm văn học mà là tâm hồn Việt, là tiếng khóc của dân tộc.
Và quả đúng như vậy.
Người Việt có thể khác nhau ở vùng miền, giọng nói, phong tục; nhưng nhắc đến Kiều, tất cả như tìm được tiếng chung của cảm xúc. Từ niềm thương phận tài hoa, đến nỗi căm giận bất công, từ sự khát khao yêu thương đến những đoạn trường đớn đau, “Truyện Kiều” chứa trong đó toàn bộ phổ cảm xúc của một dân tộc quen chịu đựng nhưng không bao giờ khuất phục.
Lật từng trang Kiều, ta bắt gặp cả “nhân tình thế thái” lẫn triết lý về chữ “tâm”. Ta gặp cái đẹp mong manh, cái ác lẩn khuất, sự phản bội, tình tri kỷ, đêm trăng, tiếng đàn, những giọt nước mắt - tất cả hòa thành một bản trường ca của đời sống. “Truyện Kiều” tồn tại không chỉ vì nghệ thuật ngôn từ kiệt xuất mà vì nó chạm đến điểm yếu mềm nhất của con người: nỗi đau và niềm hy vọng. Đó là lý do mà suốt hai thế kỷ, tác phẩm vẫn làm người đời ngậm ngùi:
Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa
Chiều muộn, tôi ghé thăm khu lăng mộ. Con đường dẫn vào phủ đầy lá thông, gió thổi thành những tiếng rì rào như lời chào của đất trời. Trên bia đá, dòng chữ “Thanh Hiên thi tập” khắc mờ, như muốn nhắc con người đời sau đừng chỉ nhớ Nguyễn Du qua Kiều, mà hãy nhớ cả những câu thơ ông viết trong cô quạnh, day dứt trước biến động lịch sử.
Đứng trước phần mộ người thi sĩ, tôi bất giác cúi đầu. Không phải vì sự uy nghi của một nhân vật lịch sử, mà vì thấy chính mình cũng như bao người đều là những thân phận vô thường mà Nguyễn Du từng thương xót. Từ nơi an nghỉ của ông nhìn ra, những cánh đồng xanh ngắt trải dài, dòng Lam giang lững lờ chảy. Có điều gì đó rất thực, rất đời thường; nhưng cũng có điều gì vô hình, khiến lòng người chùng xuống, thấy như vừa chạm vào rìa của lịch sử.
Người dân Tiên Điền kể rằng sáng sớm hay lúc hoàng hôn, nhiều du khách tự nhiên đứng lặng hàng chục phút trước mộ Nguyễn Du mà không rõ vì sao. Có lẽ bởi đứng nơi này, ai cũng thấy mình bé nhỏ trước tấm lòng bao dung của ông, người đã “khóc cho trăm họ, khóc cho muôn loài”.
Hơn hai trăm năm - sự trở lại của một tâm hồn bất tử
Hơn hai trăm năm kể từ ngày Nguyễn Du rời cõi tạm, thời gian tưởng chừng đã đủ dài để những dấu vết phàm trần trôi vào quên lãng. Thế nhưng, thật lạ kỳ: càng đi xa khỏi thời đại của ông, con người hôm nay lại càng thấy ông gần gũi. Ông trở lại bằng một cách lặng lẽ hơn, bền bỉ hơn bằng những câu thơ len lỏi trong đời sống, bằng những cảm xúc mà người đọc nhận ra ở chính mình.
Trong những lớp học nhỏ ở miền quê, học sinh vẫn ngắt quãng từng câu Kiều để luyện đọc, để hiểu nghĩa, rồi để thuộc lòng. Ở những thành phố lớn, người trẻ ghi lên mạng xã hội đôi đoạn thơ mà họ thấy như viết cho chính cuộc đời mình. Trong những đêm văn nghệ dân gian, tiếng hát Kiều, tiếng hát ca trù cất lên, như kéo quá khứ về ngồi cạnh hiện tại. Và trên các bục giảng của những học viện, trường đại học, hàng trăm đề tài mỗi năm vẫn tiếp tục nghiên cứu Nguyễn Du dẫu tưởng như đã nói mãi, nói hoài, vẫn chưa thể cạn.
Bởi Nguyễn Du không chỉ để lại một tác phẩm, mà để lại một “hệ sinh thái cảm xúc” của dân tộc. Kiều không chỉ là Kiều mà là biểu tượng của bao phận đời chịu đựng, của sự hiền lành, sự hy sinh, của niềm tin mong manh mà mạnh mẽ. Đọc Kiều để thương người, nhưng cũng để soi vào chính mình, để hiểu tại sao nỗi buồn của 200 năm trước vẫn có thể rung lên trong lồng ngực hôm nay.
Nhiều học giả nói rằng sở dĩ Nguyễn Du bất tử vì ông viết bằng trái tim của cả nhân loại. Nhưng tôi nghĩ ông bất tử vì điều giản dị hơn: ông viết bằng đôi mắt ướt. Đôi mắt ấy nhìn thấu những nếp nhăn của đời người, những khổ đau bị bỏ quên, những kiếp người bé nhỏ bị cuốn vào xoáy lốc thời cuộc. Ông viết để “khóc hộ cho đời” và đời vì thế mà nhớ ơn ông.
Mỗi lần đọc Kiều, ta thấy mình kiên nhẫn hơn, nhân ái hơn, lặng lẽ hơn trong cách đối diện với bất công và thử thách. Cũng giống như dòng Lam giang đi cùng lịch sử, thơ Nguyễn Du đi cùng con người Việt qua từng thời kỳ, để nhắc ta rằng dù biến động đến đâu, cái đẹp và cái thiện vẫn có con đường để nảy nở. Và bởi vậy, hai trăm năm không làm Nguyễn Du xa đi; nó chỉ khiến bóng hình ông hiện lên rõ hơn như một vì sao cố định trên bầu trời văn hóa Việt, dẫn chúng ta bước tiếp trong hành trình kiếm tìm lòng nhân ái của chính mình.
Trước khi rời Tiên Điền, tôi ngoái lại lần cuối. Trời đã tím dần. Một lớp sương mỏng phủ lên rặng tre, còn tiếng chim cuối ngày như đang gọi nhau về tổ. Trong khoảnh khắc ấy, tôi chợt hiểu vì sao hơn hai trăm năm qua, người Việt vẫn không thôi nhắc đến tên Nguyễn Du. Ông không chỉ là đại thi hào, là danh nhân văn hóa thế giới, mà là “bạn tâm hồn” của dân tộc, người đã gói ghém cả nỗi đau và niềm hy vọng vào những câu thơ sống mãi. Lịch sử có thể đổi thay, vương triều có thể qua đi, nhưng còn con người thì còn “Truyện Kiều”.
Và còn “Truyện Kiều” thì Nguyễn Du vẫn hiện diện lặng lẽ, nhân hậu như một trái tim bất tử của văn hóa Việt.
Nguyễn Thành
Nguồn VNCA : https://vnca.cand.com.vn/tu-lieu-van-hoa/hon-hai-the-ky-van-nghe-tieng-nguyen-du-i790888/