Bệnh tim mạch – thách thức sức khỏe lớn
Nhóm nghiên cứu gồm Phạm Thanh Huế, Nguyễn Thị Kim An, Nguyễn Thế Năng và Vũ Thị Thu Lê, Trường đại học Nông lâm, Đại học Thái Nguyên và Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội nghiên cứu thành phần hóa học và một số hợp chất phân lập được từ loài xuyên tâm thảo thu hái tại Cao Bằng. Kết quả mở ra cơ sở khoa học quan trọng cho việc sử dụng dược liệu này trong phòng và điều trị bệnh tim mạch theo y học dân gian.
Theo nhóm nghiên cứu, bệnh tim mạch hiện là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong toàn cầu. Năm 2017, bệnh tim mạch, chủ yếu do xơ vữa động mạch, đã gây ra gần 18 triệu ca tử vong, chiếm hơn 30% tổng số tử vong do bệnh tật. Ở Việt Nam, số liệu của Hội Tim mạch học Việt Nam cho thấy năm 2019 có tới 2,4 triệu người mắc bệnh tim mạch, trong đó 65% là bệnh do xơ vữa động mạch.
Hoạt chất trong cây xuyên tâm thảo có tác dụng tốt trong điều trị bệnh tim mạch.
Hiện nay, điều trị xơ vữa động mạch chủ yếu bằng thuốc hóa dược như statin, fibrat, aspirin hay thuốc hạ huyết áp. Tuy nhiên, các thuốc này thường để lại tác dụng phụ không mong muốn như đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, mất ngủ. Do đó, việc tìm kiếm các nguồn thảo dược an toàn, hiệu quả để hỗ trợ điều trị đang được quan tâm tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.
Xuyên tâm thảo (Canscora lucidissima) được phát hiện phân bố ở nhiều quốc gia châu Á như Ấn Độ, Malaysia, Lào, Trung Quốc và Việt Nam. Ở trong nước, loài này được tìm thấy tại các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh.
Người dân địa phương thường dùng Xuyên tâm thảo để chữa các bệnh liên quan đến tim mạch và huyết áp. Một số tài liệu trước đây cũng ghi nhận loài này được sử dụng ở Trung Quốc và Ấn Độ trong điều trị các bệnh tim mạch. Tuy nhiên, cho đến nay tại Việt Nam vẫn chưa có công bố chính thức nào về thành phần hóa học của cây thuốc này.
Để làm rõ giá trị dược liệu, nhóm nghiên cứu đã thu hái mẫu thân và lá Xuyên tâm thảo vào tháng 8/2024 tại xã Ngọc Động, huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng. Mẫu được GS.TS Trần Thế Bách (Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam) xác định chính xác tên khoa học và lưu trữ tiêu bản tại Viện.
Nguyên liệu sau khi được làm sạch, sấy khô đến độ ẩm <12% được nghiền mịn và chiết xuất bằng ethanol 96%. Dịch chiết tiếp tục được phân tách bằng các dung môi có độ phân cực tăng dần: n-hexane, dichloromethane, ethyl acetate và nước. Các phân đoạn này được xử lý bằng các phương pháp sắc ký lớp mỏng (TLC), sắc ký cột (CC) và phân tích cấu trúc bằng phổ cộng hưởng từ hạt nhân (NMR).
Ba nhóm hợp chất chính được xác định
Kết quả định tính cho thấy trong bảy nhóm hợp chất khảo sát, thân và lá Xuyên tâm thảo thu hái ở Cao Bằng có chứa ba nhóm chính: Flavonoid, terpenoid và axit hữu cơ. Bốn nhóm chất còn lại – alkaloid, saponin, glycoside tim và tannin – không được phát hiện.
Bên cạnh đó, từ các cao phân đoạn được chiết lỏng từ mẫu cao chiết ethanol ban đầu, nhóm đã phân lập và xác định cấu trúc của năm hợp chất, trong đó có ba hợp chất lần đầu được xác định từ loài thực vật này, gồm: methyl gallate, apigenin 7-O-β-D-glucopyranoside và naringenin-7-O-β-D-glucopyranoside.
Methyl gallate là một dẫn xuất của acid gallic, thuộc nhóm polyphenol, đã được ghi nhận có hoạt tính chống oxy hóa, kháng viêm và bảo vệ tim mạch mạnh mẽ trong một số nghiên cứu quốc tế.
Apigenin 7-O-β-D-glucopyranoside là flavonoid glycoside của apigenin – một hợp chất thiên nhiên có trong nhiều loài thực vật, được biết đến với tác dụng chống oxy hóa, chống viêm, an thần và bảo vệ tế bào tim.
Naringenin-7-O-β-D-glucopyranoside là dạng glycoside của naringenin, một flavanone thường gặp trong trái cây có múi, có khả năng điều hòa lipid máu, cải thiện chức năng nội mô và hỗ trợ giảm nguy cơ xơ vữa động mạch.
Kết quả nghiên cứu đã góp phần bổ sung cơ sở dữ liệu hóa học cho loài Xuyên tâm thảo tại Việt Nam. Đây là những bằng chứng khoa học ban đầu, tạo nền tảng để đánh giá các hoạt tính sinh học trong tương lai, đặc biệt là tiềm năng ứng dụng trong phòng và điều trị bệnh tim mạch.
Việt Nam có nguồn tài nguyên dược liệu phong phú.
Việc phân lập thành công các hợp chất có giá trị từ nguồn dược liệu bản địa cũng giúp khẳng định tiềm năng phát triển các sản phẩm dược liệu mới dựa trên kinh nghiệm y học dân gian kết hợp với bằng chứng khoa học hiện đại.
Nghiên cứu về Xuyên tâm thảo tại Cao Bằng đã chỉ ra loài dược liệu này chứa nhiều hợp chất có ý nghĩa dược học, trong đó có ba hợp chất lần đầu tiên được xác định ở Việt Nam. Kết quả này không chỉ làm phong phú thêm cơ sở dữ liệu hóa học về cây thuốc bản địa mà còn mở ra hướng đi mới trong việc khai thác và phát triển dược liệu phục vụ chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Tiềm năng điều trị bệnh tim mạch từ các loài dược liệu
Theo Tổ chức Y tế thế giới, có đến 80% dân số toàn cầu sử dụng thảo dược để chăm sóc và bảo vệ sức khỏe. Theo điều tra về nguồn gen dược liệu Việt Nam hiện nay có 5.117 loài, trong đó có nhiều loại dược liệu quý hiếm. Ngoài ra vốn tri thức về y học cổ truyền của dân tộc có rất nhiều bài thuốc và dược liệu chăm sóc sức khỏe quý và lâu năm.
Tổng giá trị thị trường của dược liệu nước ta sử dụng hàng năm ước tính hơn 400 triệu USD/năm.
Việt Nam được đánh giá có rất nhiều tiềm năng lợi thế để phát triển dược liệu trở thành một ngành công nghiệp cho lại năng suất cao không chỉ phục vụ cho sức khỏe cộng đồng, mà còn góp phần xóa đói giảm nghèo cho người dân vùng dân tộc thiểu số miền núi.
PGS.TS Trần Văn Ơn - nguyên Trưởng Bộ môn Thực vật, Trường Đại học Dược Hà Nội, nhiều loài có giá trị cao, là dược liệu quý được thế giới công nhận như sâm Ngọc Linh, thông đỏ, hoa hòe, trinh nữ hoàng cung, giảo cổ lam...
Với xu thế chung toàn cầu, việc sử dụng các sản phẩm từ tự nhiên, dược liệu được sử dụng làm nguyên liệu sản xuất các sản phẩm bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người như thuốc chữa bệnh, thực phẩm bảo vệ sức khỏe, hóa mỹ phẩm, thực phẩm thực dưỡng, đồ uống thảo dược… ngày càng cao.
Tuy nhiên, chỉ ra nhiều điểm yếu của ngành dược liệu Việt Nam, PGS.TS Trần Văn Ơn cho rằng, trong nhiều năm qua, ngành này vẫn chưa khai thác hết tiềm năng vốn có, chủ yếu mới dừng lại ở khai thác thô, giá trị gia tăng thấp, chưa tạo ra sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế.
Ngành dược liệu cũng gặp khó khăn trong toàn chuỗi giá trị về sản lượng, sự đồng bộ các tiêu chuẩn và thiếu công nghệ lõi chiết xuất. Theo ông Ơn, những điểm yếu này khiến dược liệu của Việt Nam bị lép vế trước các đối thủ thế giới.
Để khắc phục những điều này, phải đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu về các loài dược liệu, xây dựng vùng trồng ổn định, có chiến lược phát triển lâu dài bảo tồn loài cũng như phát triển các công nghệ chế biến tiên tiến, đưa dược liệu trở thành phương pháp điều trị bền vững, lâu dài.
PV