Hợp tác đại học, doanh nghiệp và địa phương: Nối trách nhiệm và quyền lợi

Hợp tác đại học, doanh nghiệp và địa phương: Nối trách nhiệm và quyền lợi
2 ngày trướcBài gốc
Sinh viên Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TPHCM trải nghiệm thiết bị ở phòng thí nghiệm Yaskawa i3 -Mechatronics do doanh nghiệp tài trợ. Ảnh: HCMUTE
Việc gắn kết này còn góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Để đạt được điều này, cần sự đồng thuận và cam kết từ ba phía.
Từ câu chuyện thực tập của sinh viên...
Phó Chủ tịch UBND tỉnh Bình Thuận, ông Nguyễn Minh, cho biết, tỉnh đang định hướng phát triển khu công nghệ cao, trung tâm dữ liệu lớn và đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong mọi lĩnh vực. Do đó, trong thời gian tới, tỉnh mong muốn tiếp tục hợp tác với Đại học Quốc gia TPHCM nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu hút nhân tài về làm việc và cộng tác trong các chương trình, dự án trọng điểm. Đồng thời, Bình Thuận cam kết tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp đầu tư và phát triển trong các lĩnh vực có tiềm năng, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã hội địa phương phát triển bền vững.
Trong bối cảnh thị trường lao động ngày càng cạnh tranh, việc kết hợp giữa lý thuyết và thực hành trở thành yêu cầu bắt buộc đối với sinh viên ở mọi ngành nghề. Hiện các trường đại học chủ yếu tổ chức thực tập cho sinh viên thông qua các biên bản ghi nhớ (MOU) hoặc thỏa thuận hợp tác với doanh nghiệp.
Theo đó, doanh nghiệp sẽ cung cấp danh sách vị trí thực tập phù hợp với ngành học cùng các tiêu chí tuyển chọn cụ thể. Ở chiều ngược lại, một số đơn vị chỉ cung cấp giấy giới thiệu, việc liên hệ do người học tự lo liệu. Điều này dẫn đến tình trạng, sinh viên không được tiếp nhận hoặc được tiếp nhận nhưng “tự bơi” trong quá trình kiến tập, thực tập.
TS Phạm Tấn Hạ - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia TPHCM), cho biết, các khoa đào tạo thường chủ động tìm kiếm đối tác doanh nghiệp để giới thiệu cơ hội thực tập cho sinh viên. “Một trong những tiêu chí quan trọng khi xây dựng chương trình đào tạo là kết nối với đơn vị thực tập”, TS Hạ nhấn mạnh.
Trong quá trình thực tập, nhà trường đóng vai trò trung gian, hỗ trợ sinh viên đăng ký và theo dõi tiến độ. Giảng viên hướng dẫn sẽ phối hợp với doanh nghiệp để đánh giá năng lực làm việc của sinh viên, đưa ra phản hồi giúp họ phát triển kỹ năng chuyên môn và kỹ năng mềm. Sau khi hoàn thành, sinh viên nộp báo cáo thực tập, còn doanh nghiệp đánh giá kết quả, cấp chứng nhận hoặc đề xuất cơ hội việc làm nếu sinh viên thể hiện tốt.
Dù mô hình hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp đã hình thành những thực tế cho thấy vẫn còn nhiều khó khăn trong triển khai. Trưởng phòng Công tác sinh viên tại một trường đại học công lập ở TPHCM cho rằng, nếu chỉ kỳ vọng vào tinh thần trách nhiệm của doanh nghiệp thì chưa đủ.
“Nhiều sinh viên có thành tích học tập tốt nhưng gặp khó khăn khi tìm nơi thực tập. Doanh nghiệp lo ngại sinh viên thiếu kinh nghiệm, cần nhân sự hỗ trợ, hoặc phát sinh những vấn đề không mong muốn trong quá trình thực tập”, ông chia sẻ.
TS Phạm Tấn Hạ cũng nhìn nhận những rủi ro trong thực tập là khó tránh khỏi. Tuy nhiên, ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nhà trường và doanh nghiệp cùng ngồi lại để tìm giải pháp hợp lý, đảm bảo sự đồng thuận giữa các bên.
Một số giảng viên tại TPHCM nhận định, nếu doanh nghiệp tiếp nhận sinh viên thực tập nhưng không nhận được bất kỳ hỗ trợ tài chính hay chính sách ưu đãi nào, họ sẽ thiếu động lực tham gia. Vì vậy, cần có chính sách cụ thể để thúc đẩy doanh nghiệp tích cực hơn trong công tác này.
Chẳng hạn, nhà trường có thể trích một phần chi phí đào tạo để hỗ trợ các doanh nghiệp nhận sinh viên thực tập. Đồng thời, việc xây dựng các chương trình cam kết đào tạo - thực tập giữa nhà trường và doanh nghiệp sẽ giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn nhân lực chất lượng cao.
PGS.TS Nguyễn Đức Trung - Hiệu trưởng Trường Đại học Ngân hàng TPHCM, cho biết, nhà trường đã ký kết hợp tác với khoảng 1.000 doanh nghiệp trong lĩnh vực thương mại, kiểm toán... và 31 ngân hàng trong nước, 7 ngân hàng quốc tế. Các hợp tác này bao gồm điều khoản tạo điều kiện cho sinh viên thực tập.
“Khi doanh nghiệp tiếp nhận sinh viên thực tập, nhà trường sẽ đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực chất lượng. Ngoài ra, khi doanh nghiệp tài trợ trang thiết bị cho nhà trường, họ có thể được tiếp cận các nghiên cứu độc quyền, sáng chế từ trường. Đây là sự hợp tác đôi bên cùng có lợi, được ghi nhận trong các thỏa thuận ký kết”, ông Trung chia sẻ.
Theo ông Trung, những cam kết giữa nhà trường và doanh nghiệp cần dựa trên nguyên tắc thỏa thuận tự nguyện, được điều chỉnh theo pháp luật dân sự và ý thức trách nhiệm của hai bên, thay vì phải xây dựng thêm các quy định pháp luật chuyên ngành.
Việc tạo cơ chế hợp tác rõ ràng giữa nhà trường và doanh nghiệp không chỉ giúp sinh viên có cơ hội thực tập thực tế, mà còn góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, đáp ứng nhu cầu thị trường lao động.
Ông Phạm Phú Ngọc Trai chia sẻ góc nhìn kết nối giữa doanh nghiệp và đại học, cuối tháng 2/2025. Ảnh: VNUHCM
... Đến chương trình đào tạo
Tại tọa đàm “Liên kết đại học - địa phương - doanh nghiệp: Hợp lực vì sự phát triển kinh tế và xã hội” được tổ chức tại TPHCM cuối tháng 2/2025, ông Phạm Phú Ngọc Trai - Chủ tịch Công ty Tư vấn kinh doanh hội nhập toàn cầu, thành viên Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Quốc gia TPHCM đánh giá hệ thống giáo dục Việt Nam có tiềm năng đáp ứng nhu cầu nhân lực trình độ cao.
Điều này thể hiện qua đội ngũ lao động chất lượng cao làm việc tại các doanh nghiệp FDI, trong đó hầu hết là người Việt Nam đã được đào tạo bài bản tại các cơ sở giáo dục trong nước.
Tuy nhiên, ông Trai cho rằng, các trường đại học hiện nay chưa có sự cân đối giữa chương trình đào tạo và nhu cầu thực tế của thị trường lao động. Chẳng hạn, các trường đại học Việt Nam chưa phát triển mạnh chương trình đào tạo ngắn hạn theo yêu cầu của doanh nghiệp như trường quốc tế.
Do đó, nhiều doanh nghiệp phải xây dựng chương trình đào tạo nội bộ hoặc gửi nhân sự ra nước ngoài, làm gia tăng chi phí và kéo dài thời gian nâng cao năng lực. Hệ quả của tình trạng này là chỉ khoảng 60% sinh viên tốt nghiệp mỗi năm có việc làm đúng chuyên ngành. Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong tuyển dụng nhân sự có kỹ năng phù hợp, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế số và hội nhập quốc tế đang phát triển mạnh mẽ.
“Chất lượng đầu vào của sinh viên Việt Nam được đánh giá khá tốt, nhưng đầu ra còn nhiều hạn chế, đặc biệt ở ba khía cạnh quan trọng là kỹ năng mềm, khả năng thích nghi và năng lực ứng dụng thực tiễn. Sự chênh lệch này đẩy doanh nghiệp vào thế khó. Họ phải dành nguồn lực đáng kể để đào tạo lại nhân sự mới, làm tăng chi phí và kéo dài thời gian hòa nhập”, ông Trai nói.
Phân tích kỹ hơn, ở khía cạnh kỹ năng mềm, ông Trai nhận định, sinh viên nắm vững lý thuyết nhưng thiếu kinh nghiệm thực tế, tư duy phản biện, kỹ năng giao tiếp, và khả năng làm việc nhóm.
Đối với khả năng thích nghi, nhiều sinh viên còn thụ động, phụ thuộc vào lý thuyết sách vở trong khi môi trường làm việc hiện đại đòi hỏi sự linh hoạt và khả năng học hỏi nhanh. Cuối cùng ở năng lực ứng dụng thực tiễn, chương trình đào tạo còn nặng về lý thuyết, ít thực hành, dẫn đến việc sinh viên không đủ kinh nghiệm để đáp ứng nhu cầu doanh nghiệp ngay sau khi ra trường.
Ở phía nhà trường, PGS.TS Nguyễn Minh Tâm - Phó Giám đốc Đại học Quốc gia TPHCM, cho biết đơn vị này đang hợp tác với 31 địa phương và hơn 200 doanh nghiệp, tập đoàn trên nhiều lĩnh vực. Chỉ trong giai đoạn 2021 - 2024, số văn bản ký kết tăng 387% và hoạt động phối hợp tăng 248% so với giai đoạn 2016 - 2020.
Tuy nhiên, báo cáo của Ban Đối ngoại và Phát triển dự án (Đại học Quốc gia TPHCM) cho thấy, việc hợp tác với doanh nghiệp còn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ và bền vững.
Hoạt động hợp tác thường mang tính ngắn hạn hoặc chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng nhiệm kỳ, chưa đảm bảo cam kết về chất lượng đào tạo và nguồn nhân lực. Hơn nữa, các hoạt động triển khai dù được ký kết với nhiều đối tác nhưng gặp khó khăn do hạn chế về kinh phí hỗ trợ từ các địa phương, doanh nghiệp.
Nguyên nhân của tình trạng này nằm ở việc thiếu cơ chế ưu tiên, cũng như truyền thông, trao đổi thông tin giữa trường đại học với địa phương, doanh nghiệp. Từ đó, việc nắm bắt và ráp nối nhu cầu giữa trường và địa phương, doanh nghiệp không đạt được hiệu quả cao như kỳ vọng.
Ngoài ra, còn có các rào cản liên quan đến khung pháp lý, quy định về hợp tác giữa cơ sở giáo dục và đối tác thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Điển hình là việc triển khai các nhiệm vụ theo kế hoạch bị động và chậm do phụ thuộc vào thời điểm ban hành chính sách tài khóa hằng năm của cơ quan Trung ương và địa phương.
Doanh nghiệp đến trường phỏng vấn tuyển dụng sinh viên, tại Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TPHCM). Ảnh: Lê Mạnh
Xây dựng hệ sinh thái hợp tác bền vững
Để thúc đẩy hợp tác với doanh nghiệp và các địa phương, trường đại học cần đổi mới trong cách tiếp cận, mở rộng hình thức hợp tác và tạo cơ chế khuyến khích các bên đầu tư lâu dài. Các trường cũng có thể đẩy mạnh quảng bá thương hiệu, đồng thời chọn lọc những địa phương có nhu cầu và năng lực phù hợp để triển khai các chương trình trọng điểm.
GS.TS Mai Thanh Phong - Hiệu trưởng Trường Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TPHCM), nhận xét, trong quá trình hợp tác, các bên sẽ có những lúc chưa gặp nhau về nhiều mặt. Ví dụ, khoa học công nghệ ở trường đại học mang tính hàn lâm, trong khi ở doanh nghiệp lại mang tính ứng dụng, đôi khi là bảo mật. “Do đó, tôi muốn nhấn mạnh tính chủ động của các trường đại học trong việc hợp tác với doanh nghiệp và địa phương”, GS Phong nói.
Đưa ra kiến nghị tại tọa đàm, ông Phạm Phú Ngọc Trai cho rằng cần xây dựng một hệ sinh thái hợp tác thực chất, nơi doanh nghiệp, đại học và địa phương phối hợp chặt chẽ để đồng sáng tạo, chuyển giao công nghệ và phát triển nhân lực chất lượng cao.
Trong đó, Nhà nước cần tạo hành lang pháp lý thông thoáng, khuyến khích các mô hình hợp tác công - tư trong nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao công nghệ. Chẳng hạn như có ưu đãi cho doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu phát triển hoặc tạo cơ chế đặt hàng nghiên cứu từ doanh nghiệp.
Đối với các trường đại học, cần chuyển đổi mô hình đào tạo theo hướng thực hành, bám sát nhu cầu doanh nghiệp, trong đó các trường cần được trao quyền tự chủ cao hơn. Ví dụ, doanh nghiệp có thể xây dựng chương trình học tích hợp với các khóa thực tập có trả lương, tạo cơ chế để doanh nghiệp tham gia giảng dạy hoặc phát triển mô hình “trường đại học doanh nghiệp”, nơi doanh nghiệp đặt hàng nghiên cứu hoặc tài trợ các dự án có tính ứng dụng cao…
Cuối cùng, doanh nghiệp phải chủ động tham gia vào quá trình đào tạo và đầu tư nghiên cứu và phát triển, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. “Các doanh nghiệp Việt Nam có thể học hỏi mô hình “quản trị viên tập sự” của các tập đoàn đa quốc gia, giúp phát triển đội ngũ lãnh đạo trẻ ngay từ khi còn trên ghế nhà trường”, ông Trai đề xuất.
Nhằm hỗ trợ giảng viên, sinh viên trong việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu các ngành công nghệ, kỹ thuật, nhiều trường đại học mạnh dạn đầu tư hàng tỷ đồng để trang bị thiết bị hiện đại. Đồng thời, nhiều doanh nghiệp chung tay hợp tác với nhà trường, góp vốn xây dựng các phòng thí nghiệm tiên tiến.
Việc doanh nghiệp tài trợ thiết bị tiên tiến cho phòng thí nghiệm và thực hành có mối quan hệ mật thiết với chất lượng đào tạo của nhà trường. Khi nhà trường xây dựng được uy tín và khẳng định thương hiệu thông qua chất lượng đầu ra, các doanh nghiệp lớn sẽ chủ động tìm đến để hỗ trợ. Ngược lại, sự đồng hành của doanh nghiệp cũng góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu, tạo ra môi trường học tập hiện đại và thực tiễn hơn.
Lê Mạnh
Nguồn GD&TĐ : https://giaoducthoidai.vn/hop-tac-dai-hoc-doanh-nghiep-va-dia-phuong-noi-trach-nhiem-va-quyen-loi-post724035.html