Hướng chuyển mình thông minh của Việt Nam trong giáo dục

Hướng chuyển mình thông minh của Việt Nam trong giáo dục
3 giờ trướcBài gốc
Bà Sasha Stubbs, Trưởng phòng Thiết kế học tập tại Đại học RMIT Việt Nam Ảnh: RMIT
Xây dựng hạ tầng giáo dục đáp ứng yêu cầu tương lai
Dù vẫn ở những bước đầu trên hành trình đổi mới giáo dục, Việt Nam đang tạo ra sức bật rõ rệt.
Tính đến năm 2024, các nền tảng quản lý học tập (LMS) đã được triển khai rộng rãi tại các trường đại học ở Việt Nam, như một phần trong chiến lược chuyển đổi số quốc gia trong lĩnh vực giáo dục đại học.
“Việt Nam là tân binh trong lĩnh vực đổi mới giáo dục, với tiềm năng trong thiết kế mô hình/hoạt động học tập kết hợp và trực tuyến vô cùng to lớn chưa được khai thác”, bà Sasha Stubbs nhận định.
Tự mình tận mắt chứng kiến sự chuyển mình ấy, bà Sasha Stubbs chia sẻ: “Khi mới đến Việt Nam vào 4 năm trước, tôi từng lo lắng làm sao có thể tuyển dụng đội ngũ thiết kế học tập từ thị trường trong nước. Đến hôm nay, tôi tự hào chia sẻ rằng, ngoại trừ tôi ra, toàn bộ nhân sự bộ phận Thiết kế học tập tại Đại học RMIT Việt Nam đều là người Việt và họ chính là những chuyên gia tài năng và tận tâm nhất mà tôi từng có cơ hội làm việc cùng”.
Sự phát triển của các công ty công nghệ giáo dục trong nước như OOOLab, sự hình thành cộng đồng thiết kế học tập toàn quốc, cùng các chương trình đào tạo như Cử nhân Công nghệ giáo dục của Đại học Bách khoa Hà Nội đang góp phần củng cố uy tín ngày càng tăng của lĩnh vực này. Song bà Sasha Stubbs cũng chỉ ra những thách thức còn tồn tại dai dẳng, như hạ tầng số chưa đồng đều và mô hình giáo dục truyền thống lấy giáo viên làm trung tâm.
“Hệ thống giáo dục vốn đặt trọng tâm vào người dạy tạo ra tâm thế phản kháng trước các phương pháp đổi mới. Dẫu vậy, điều này đang dần thay đổi khi ngày càng nhiều nhà giáo trẻ bước vào ngành”, bà nhận định.
Thị trường công nghệ giáo dục tại Việt Nam hiện đã đạt doanh thu 360 triệu đô la Mỹ (theo Sách trắng Công nghệ giáo dục Việt Nam năm 2025). Với lực lượng lao động trẻ và khả năng tiếp cận công nghệ số mạnh mẽ, bà Sasha Stubbs nhìn thấy cơ hội xây dựng Việt Nam thành một trung tâm thiết kế học tập và dịch vụ giáo dục có sức cạnh tranh toàn cầu.
Thiết kế cho học tập suốt đời và tạo ảnh hưởng toàn cầu
Khi nền kinh tế Việt Nam chuyển mình sang sản xuất công nghệ cao, tự động hóa và AI, bản thân việc học phải được tái định hình. “Tư duy rằng chỉ cần có một tấm bằng là yên tâm sẽ có việc làm cả đời đã lỗi thời”, bà Sasha Stubbs nói. “Học tập suốt đời sẽ trở thành một phần tất yếu và bình thường trong cuộc sống của chúng ta”.
Điều này có nghĩa các trường đại học phải chuyển hướng sang các hình thức đào tạo theo mô-đun linh hoạt như các khóa học ngắn hạn theo hình thức chứng chỉ vi mô, và bằng cấp tích lũy. Bà Sasha Stubbs tin rằng các cơ sở giáo dục tại Việt Nam sẽ sớm bắt nhịp xu hướng, tiếp bước các đại học quốc tế hàng đầu vốn đã tiên phong triển khai những mô hình này.
Việt Nam có tiềm năng phát triển các công ty công nghệ giáo dục và studio thiết kế học tập cung cấp dịch vụ thuê ngoài chất lượng cao với chi phí cạnh tranh. Ảnh: RMIT
“Các trường đại học Việt Nam nhiều khả năng sẽ bắt đầu cung cấp những hình thức học tập nhỏ gọn, linh hoạt hơn, phù hợp với người đi làm và những người đang ở các giai đoạn khác nhau của cuộc sống”, bà nhận định.
Mô hình học tập đa hình thức, kết hợp giữa sự linh hoạt trực tuyến với tương tác trực tiếp, đang nhanh chóng thu hút sự quan tâm. Tại RMIT Việt Nam, hơn 200 môn học cũng đã được chuyển đổi sang định dạng số.
Bà Sasha Stubbs nhìn nhận AI là nhân tố thúc đẩy thay đổi mang tính toàn diện, không chỉ với người học mà còn với đội ngũ làm công tác giáo dục. “AI có thể hỗ trợ các chuyên gia thiết kế học tập bằng cách tự động hóa các tác vụ lặp lại, tạo bản thảo đầu tiên, xây dựng mô phỏng tương tác và cá nhân hóa trải nghiệm học tập trên quy mô lớn”.
Chuyên gia cũng chỉ ra sự phát triển nhanh chóng của các nghề nghiệp thuộc “không gian thứ ba”, như thiết kế học tập, chuyên gia công nghệ và sáng tạo nội dung số, đang mở ra một biên độ nghề nghiệp mới. Theo bà, với lực lượng lao động trẻ, tận tâm, giỏi tiếng Anh và thông thạo chuyên môn, Việt Nam có thể trở thành trung tâm cung cấp nguồn nhân lực cho cả thị trường trong nước và quốc tế.
Thị trường quản lý chương trình học trực tuyến toàn cầu (OPM) dự báo đạt 7,7 tỉ đô la Mỹ vào năm nay. Bà Stubbs nhìn nhận đây là cơ hội lớn: “Việt Nam có tiềm năng phát triển các công ty công nghệ giáo dục và studio thiết kế học tập cung cấp dịch vụ thuê ngoài với chi phí cạnh tranh nhưng vẫn đảm bảo chất lượng cao”.
Để hiện thực hóa tiềm năng này, cần có sự hỗ trợ mang tính hệ thống. Bà Stubbs kêu gọi chính phủ có các chính sách khuyến khích dành cho các công ty khởi nghiệp về công nghệ giáo dục, công nhận chính thức đối với các vai trò thiết kế học tập, cũng như đầu tư hơn nữa vào các trung tâm đào tạo ở các trường đại học.
“Người làm công tác giáo dục đang rất cần được hỗ trợ để chuyển từ phương pháp giảng dạy truyền thống sang hướng tiếp cận lấy sinh viên làm trung tâm, chủ động và theo nhiều hình thức khác nhau”, bà nhấn mạnh.
Điều khiến bà Stubbs hào hứng nhất chính là triển vọng xây dựng một ngành nghề mới tại Việt Nam kết hợp giữa sáng tạo, phương pháp sư phạm và công nghệ. “Tôi đặc biệt lạc quan về tiềm năng của Việt Nam trong việc trở thành trung tâm chuyên môn về thiết kế học tập, không chỉ phục vụ cho bản thân các trường đại học mà còn tạo ra các cơ hội kinh tế thông qua việc cung cấp dịch vụ cho thị trường quốc tế”.
Thông điệp bà gửi đến sinh viên và các bạn trẻ mới bước vào ngành rất rõ ràng: “Hãy nghiêm túc cân nhắc theo đuổi sự nghiệp trong ‘không gian thứ ba’ nơi giao thoa giữa giảng dạy truyền thống và công nghệ. Bạn có thể góp phần định hình tương lai của nền giáo dục ngay tại Việt Nam thay vì chỉ đi theo mô hình được phát triển ở nơi khác”.
Thái Phương - Hoàng Hà
Nguồn PL&XH : https://phapluatxahoi.kinhtedothi.vn/huong-chuyen-minh-thong-minh-cua-viet-nam-trong-giao-duc-434463.html