Tuyến đường cao tốc Hà Nội - Thái Nguyên đưa du khách đến với vùng đất "Đệ nhất danh trà". Ảnh: C.T.V
Mảnh đất này, khi ấy còn hoang sơ, bình dị nhưng đầy sức sống, như chính những con người nơi đây. Bao năm trôi qua, hình ảnh Thái Nguyên vẫn in đậm trong tôi, không chỉ bởi núi non hùng vĩ, dòng sông Công uốn lượn, mà còn có một hương vị rất riêng. Vị trà móc câu chát dịu đầu lưỡi, ngọt đằm nơi cổ họng, khiến tôi nhớ mãi không quên.
Ký ức ngày ấy vẫn còn vẹn nguyên trong tôi, đó lần đầu tiên tôi đặt chân đến xã La Bằng, huyện Đại Từ, tỉnh Bắc Thái trồng sắn làm kinh tế cho đơn vị. Được người dân La Bằng mời chén trà nóng giữa cái lạnh se sắt của núi rừng, chén trà nhỏ nhưng gói trọn cả tấm lòng của người dân Đại Từ sâu nặng.
Lúc ấy, tôi chưa hiểu hết giá trị của loại trà này. Chỉ biết rằng, sau bao ngày hành quân vất vả, được ngồi quây quần bên bếp lửa, nhấp ngụm trà nóng, nghe tiếng gió thổi của núi rừng Việt Bắc, rồi lắng nghe người dân kể chuyện ngày xưa… kể về cây chè, làm lòng tôi thấy tan hết mệt mỏi, sau chặng đường dài hành quân vất vả.
Người dân La Bằng, Đại Từ, Thái Nguyên, không chỉ cho tôi chén trà, họ còn cho chúng tôi tình người, trong những ngày thiếu thốn, đói rét, chúng tôi được họ chia sẻ từng bát cơm, củ sắn, được che chở như người thân. Chính những người dân nơi đây đã cưu mang chúng tôi, vượt qua những tháng ngày gian khó nhất, khi mà sư đoàn vừa huấn luyện chiến đấu vừa phải tự túc một phần lương thực. Hình ảnh những người lính trẻ, tay gõ cuốc xẻng miệng nghêu ngao ngâm thơ “rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt” bên nồi sắn luộc của các mẹ chiến sĩ, sau những giờ lao động vất vả đã khắc sâu vào tâm trí tôi trong cuộc đời quân ngũ.
Thật vinh dự cho sư đoàn chúng tôi, là được đóng quân nơi núi rừng Việt Bắc là địa chỉ đỏ, nơi lưu giữ hồn thiêng sông núi, nơi những trang sử hào hùng còn vọng mãi trên từng vách núi, khe sâu. Ở nơi đây, đất trời như hòa quyện với núi rừng trùng điệp, từng đồi chè nối dài bất tận.
Chè Thái Nguyên, thứ đặc sản nức tiếng ấy, không chỉ là món quà của thiên nhiên mà còn kết tinh của mồ hôi, công sức và cả tình yêu của người dân nơi đây. Lá chè được hái bằng tay, sao bằng chảo gang, từng cử chỉ nâng niu, như nâng niu chính tấm lòng của người làm chè. Uống một ngụm trà Thái, thấy được cái vị chát đầu lưỡi rồi ngọt đằm lan tỏa, như chính con người nơi đây, mộc mạc, chân thành mà sâu sắc.
Thái Nguyên không chỉ đẹp bởi thiên nhiên hùng vĩ, mà đẹp bởi tình người đằm thắm. Người dân nơi đây sống giản dị, chan hòa, luôn sẵn lòng đón khách như người thân trở về. Trong nếp nhà sàn, bếp lửa hồng, tiếng cười rộn ràng hòa quyện cùng tiếng gió rừng, tất cả tạo nên một không gian đậm tình quê, tình người.
Mấy chục năm, tôi mới trở lại Thái Nguyên, khi đã là người lính già đi qua chiến tranh, tóc đã bạc và đã gắn bó với nhiều miền đất trong cuộc đời binh nghiệp. Nhưng khi xe vừa dừng lại mảnh đất này, tim tôi bỗng lại rộn ràng như lần đầu tiên đặt chân đến miền Việt Bắc quê hương của gió ngàn. Những đồi chè bạt ngàn xanh mướt hiện ra trước mắt, trải dài như những dải lụa mềm vắt qua triền núi. Ánh nắng ban mai soi rọi xuống dòng sông Công lấp lánh, phản chiếu những luống chè như những nét vẽ mượt mà trên một bức tranh thủy mặc sống động.
Vẻ đẹp của vùng chè Tân Cương (TP. Thái Nguyên) hút hồn du khách. Ảnh: T.L
Sau bao năm xa cách, người dân nơi đây lại đón chúng tôi như người thân trở về. Người Thái Nguyên là vậy - vẫn tràn đầy sức sống, vẫn hào phóng, vẫn đậm tình người. Họ đón chúng tôi bằng nụ cười rạng rỡ, bằng những câu chuyện thân tình cho thỏa những ngày xa cách. Trong căn nhà nhỏ giữa đồi chè, tôi được nghe người già kể về nguồn gốc cây chè - loại cây đã gắn bó với người dân nơi đây bao đời, từ những gốc chè hoang sơ mọc bên suối, qua bàn tay con người, trở thành thức uống quí giá, mang hồn cốt cho mảnh đất này.
Điều mà tôi thích thú nhất là may mắn gặp được những nghệ nhân làm chè - những người đã thổi hồn cho trà Thái Nguyên bay cao, bay xa. Họ xem cây chè như một phần máu thịt, như phần hồn của chính mình. Họ giới thiệu cho chúng tôi tỉ mỉ từng công đoạn, từ cách hái chè non vào buổi sáng sớm, khi sương còn đọng trên lá, cho đến quá trình sao khô, lên hương làm nguội…
Mỗi bước là cả một nghệ thuật. Qua bàn tay khéo léo của người nghệ nhân khi cảm nhận được độ ẩm, độ nóng, phải hiểu từng nhịp đảo chè trong chảo, sao cho lá không cháy mà vẫn giữ được hương cốm non đặc trưng. Họ không chỉ sao trà, mà họ còn thổi hồn mình vào từng búp chè trên chảo. Sao trà là công việc vất vả, nhưng hơn hết là sự tận hiến. Bởi khi người nghệ nhân đặt cả trái tim của họ vào từng lá chè, mới cho ra được những loại trà thượng hạng - như trà móc câu, trà Tân Cương từng được phong tặng là “Đệ nhất trà Việt”.
Trà Thái Nguyên không chỉ nổi tiếng trong nước, mà còn vang danh ra thế giới. Mỗi sáng khi ta thức dậy chỉ cần hớt một ngụm trà móc câu nóng, ta thấy lòng mình sảng khoái bởi trong đó không chỉ là hương vị của đất trời, mà là cả sức lao động sáng tạo, sự bền bỉ của con người Thái Nguyên. Khi ta nâng chén trà lên, hít hà mùi thơm dịu dàng mà sâu lắng. Nhấp một ngụm, vị chát thanh thấm nơi đầu lưỡi, rồi dịu lại thành vị ngọt đằm nơi cổ họng - ta nghe như một lời thủ thỉ của đất trời, của lòng người, như một câu chuyện kể về bao thế hệ, đã gìn giữ và phát triển văn hóa chè nơi đây. Tôi bỗng hiểu vì sao người ta bảo trà Thái Nguyên không chỉ là đồ uống - nó còn là biểu tượng của một vùng đất, một bản sắc, một niềm tự hào.
Chia tay Thái Nguyên lần này, tôi mang theo không chỉ là mùi hương trà, mà còn là những nụ cười, những bàn tay nắm chặt, những câu chuyện kể đậm đà nghĩa tình. Mảnh đất này, không chỉ khiến người ta say bởi trà ngon, cảnh đẹp mà còn bởi tình người sâu đậm, hồn quê mộc mạc, chân thành. Rời xa Thái Nguyên, thủ phủ của chè miền Bắc, lòng tôi bỗng xao xuyến lạ kỳ, tôi nhớ hương đất, tình người nơi đây. Và tự hứa với lòng mình sẽ quay trở lại. Để được ngồi bên bếp lửa, nâng chén trà nóng, nghe người già kể chuyện về cây chè, về chuyện cổ tích của đồng bào và cảm nhận trọn vẹn một điều giản dị nhưng sâu sắc: Hương đất, tình người Thái Nguyên - như trà móc câu, chát đầu môi, ngọt hậu…
Đường Xuân Hùng