Anh Trương Thành Ngôn giới thiệu về các loại rắn. Ảnh: Thanh Tùng
Nghề triển vọng
Trong bức tranh đa dạng của kinh tế nông thôn miền Tây, nghề nuôi rắn từng được coi là chuyện “nghe lạ tai, thấy ghê sợ”. Ở vùng biên giới An Giang, Đồng Tháp, Tây Ninh, trước đây chỉ có vài hộ gia đình mạnh dạn thuần dưỡng loài rắn hổ hèo, rắn ri cá, rắn ráo trâu để bán cho nhà hàng hoặc thương lái. Bởi vậy, nhiều người cho rằng, đó là công việc nguy hiểm, ít ai dám theo đuổi.
Thế nhưng, khi nhu cầu tiêu thụ thịt rắn ngày càng tăng, đặc biệt trong các quán ăn, nhà hàng đặc sản và xuất khẩu, nghề nuôi rắn dần bước ra ánh sáng như một “của hiếm” có giá trị kinh tế cao. Ông Chau Sóc Kim, dân tộc Khmer, là người đầu tiên nuôi rắn ở ấp An Thuận, xã biên giới Tri Tôn, tỉnh An Giang chia sẻ, đây là mô hình mới mang lại hiệu quả rất cao vì suất đầu tư thấp, do không tốn nhiều diện tích xây dựng chuồng trại, nguồn thức ăn dễ tìm trong thiên nhiên như cóc, nhái, chuột.... Rắn cũng là loài vật nuôi ít dịch bệnh, sống khỏe, mau lớn, trong vòng một năm có thể xuất bán, giá trị thương phẩm cao. Nghề nuôi rắn tuy có rủi ro nhưng không quá phức tạp, vốn đầu tư thấp hơn so với nuôi bò, heo, lại ít tốn diện tích. Một chuồng nuôi chỉ cần vài mét vuông, có nước sạch và chỗ trú ẩn, rắn có thể phát triển nhanh. Bên cạnh đó, mô hình nuôi rắn còn tạo việc làm, thu nhập cho nhiều người khác lúc nông nhàn.
Hiệu quả kinh tế rõ rệt
Thực tế đã chứng minh, nuôi rắn thương phẩm mang lại hiệu quả kinh tế cao và ổn định. Tại các xã Tân Hồng, Thường Phước của tỉnh Đồng Tháp, hay xã An Phú, Tri Tôn, Tịnh Biên của tỉnh An Giang, nhiều hộ nuôi rắn ri cá, rắn hổ hèo mỗi năm thu nhập từ vài trăm triệu đến cả tỷ đồng. Rắn ri cá là một loài đặc hữu vùng sông nước, thịt ngon, giàu dinh dưỡng, hiện có giá dao động từ 350.000 đến 450.000 đồng/kg. Một hộ nuôi vài nghìn con có thể xuất bán hàng chục tấn mỗi năm, trở thành nguồn thu nhập vượt trội so với trồng lúa, hay nuôi cá truyền thống. Ngoài bán rắn thương phẩm, người nuôi còn thu lợi từ rắn giống, da rắn và sản phẩm chế biến. Da rắn được thu mua làm hàng thủ công mỹ nghệ, túi xách, giày dép; mật rắn, rượu rắn trở thành dược liệu quý. Nhờ vậy, nghề nuôi rắn mở rộng chuỗi giá trị, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động địa phương.
Trang trại nuôi rắn thương phẩm của anh Trương Thành Ngôn, trú tại xã Phụng Hiệp, thành phố Cần Thơ có hàng nghìn con rắn các loại. Ảnh: Thanh Tùng
Đơn cử như hộ gia đình ông Chau Sóc Kim, dân tộc Khmer, ở ấp An Thuận, xã Tri Tôn, tỉnh An Giang là người đầu tiên nuôi rắn theo mô hình bán hoang dã, với 4 loại không nọc độc là hổ ngựa, hổ hèo, hổ hành và rắn lãi. Mỗi năm, doanh thu từ nuôi rắn của gia đình ông Kim đạt trên 500 triệu đồng. Hay như gia đình của anh Lê Văn Nhơn, trú tại phường Chi Lăng, tỉnh An Giang đang nuôi 15 con rắn hổ mang chúa, bình quân nuôi 1,5-2 năm, mỗi con sẽ đạt trọng lượng 1,3-1,7kg. Giá bán loài này được các nhà hàng thu mua từ 1,2-1,5 triệu đồng/kg... Quan trọng hơn, nghề nuôi rắn đã góp phần thay đổi diện mạo kinh tế - xã hội ở nhiều xã biên giới. Nếu trước đây, nông dân quanh năm trông chờ vào mùa vụ lúa bấp bênh thì nay, họ có thêm một hướng làm ăn bền vững. Nhiều hộ gia đình từng thuộc diện nghèo đã vươn lên khá giả nhờ nuôi rắn. Không chỉ dừng lại ở lợi ích kinh tế, nghề này còn giúp giảm tình trạng di cư lao động sang bên kia biên giới, góp phần giữ vững an ninh trật tự vùng biên.
Từ góc độ quản lý, các địa phương biên giới cũng đang quan tâm phát triển mô hình nuôi rắn thương phẩm. Chính quyền phối hợp với các ngành chức năng tuyên truyền, hướng dẫn bà con nuôi theo hướng an toàn, tuân thủ quy định, tránh khai thác bừa bãi từ tự nhiên gây mất cân bằng sinh thái. Đồng thời mở lớp tập huấn kỹ thuật, kết nối với doanh nghiệp để xây dựng chuỗi tiêu thụ, giúp người nuôi yên tâm gắn bó lâu dài.
Tương lai của nghề nuôi rắn thương phẩm
Trong bối cảnh nông nghiệp đang chuyển hướng sang sản xuất hàng hóa chất lượng cao, nghề nuôi rắn ở miền Tây có tiềm năng trở thành ngành hàng đặc sản mang thương hiệu vùng biên giới. Rắn thương phẩm vừa phục vụ thị trường trong nước, vừa có thể hướng tới xuất khẩu sang Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, nơi nhu cầu tiêu thụ thịt và dược liệu từ rắn rất lớn.
Để đạt được điều đó, nghề nuôi rắn cần đi theo hướng quy mô, bài bản và an toàn sinh học. Các địa phương cần quy hoạch vùng nuôi tập trung, cấp mã số vùng nuôi, gắn với tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm. Song song với đó, cần đầu tư nghiên cứu nhân giống, phòng trị bệnh, đa dạng hóa sản phẩm từ rắn. Đặc biệt, việc xây dựng thương hiệu “Rắn biên giới miền Tây” gắn với truy xuất nguồn gốc sẽ nâng cao giá trị, tránh tình trạng nuôi tự phát và bán theo đường tiểu ngạch. Về phía người dân, ngoài sự cần cù, mạnh dạn, họ rất cần sự đồng hành của Nhà nước và doanh nghiệp. Nếu được hỗ trợ vay vốn ưu đãi, được bao tiêu đầu ra, nghề nuôi rắn chắc chắn sẽ phát triển bền vững, trở thành một trong những trụ cột kinh tế nông thôn. Đồng thời, đây cũng là cách để khai thác hợp lý tiềm năng tự nhiên vùng biên, nâng cao đời sống nhân dân. Có thể nói, từ một nghề bị coi là mạo hiểm, nuôi rắn thương phẩm đã chứng minh sức sống mạnh mẽ, mở ra cánh cửa mới cho người dân miền Tây. Tương lai, khi nghề nuôi rắn được quy hoạch và phát triển đúng hướng, nó sẽ không chỉ là nguồn thu nhập ổn định, mà còn đồng hành cùng nông dân trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
Từ những thửa ruộng bấp bênh mùa nước nổi đến những chuồng rắn xanh rì bên triền sông biên giới, người dân miền Tây đã viết nên câu chuyện đổi đời bằng chính bàn tay lao động và ý chí sáng tạo. Nghề nuôi rắn thương phẩm không chỉ là một sinh kế, mà còn là minh chứng cho khát vọng vươn lên của cư dân vùng phên giậu.
Thanh Tùng