Hương vị ca cao - niềm tự hào từ miền Tây

Hương vị ca cao - niềm tự hào từ miền Tây
6 giờ trướcBài gốc
Miền Tây vốn quen thuộc với màu xanh bạt ngàn của vườn dừa, vườn xoài, vườn chôm chôm rợp bóng; với cánh đồng lúa vàng óng ả, cò bay mỏi cánh trải dài dọc những dòng sông màu mỡ phù sa, bỗng một ngày kia nở rộ một loài cây lạ – cây ca cao. Dưới những tán lá xanh mướt, người nông dân đồng bằng sông Cửu Long đã phết những nét cọ, tô điểm cuộc đời bằng những sắc màu mới: màu của cây ca cao. Tấp đò vào những vườn cây râm mát vào độ thu hoạch, bạn sẽ thấy những trái ca cao trĩu quả, sần sùi: khi xanh thẫm, khi chín đỏ, chín vàng, có khi tím ngát, treo lấp lánh như những chiếc đèn lồng nhỏ soi sáng khu vườn quê yên ả. Người miền Tây giờ đây không chỉ tự hào về sầu riêng, nhãn lồng hay xoài cát… mà còn về một loại cây xuất thân từ châu Mỹ xa xôi, từng gắn với nền văn minh Maya và Aztec – “vị khách phương Tây” nay đã trở nên thân thuộc.
Ca cao, tên khoa học Theobroma cacao, thuộc họ Cẩm quỳ (Malvaceae), được người Pháp đưa vào Việt Nam từ hơn một thế kỷ trước. Nhưng chỉ trong hai thập niên gần đây, nhờ các dự án khuyến nông và sự dấn thân của nông dân, cây ca cao mới thực sự bén duyên cùng đất phù sa Nam Bộ.
Trồng ca cao không phải quá khó, nhưng cũng chẳng hề dễ dàng. Để trồng thành công loại cây vốn không ưa nắng gắt, cần đất tơi xốp, thoát nước tốt, người nông dân đã tận dụng bóng mát của những rặng dừa, vườn cây ăn trái… Ca cao không chiếm diện tích lớn như lúa hay cà phê; chính kiểu “nương nhau mà sống” ấy giúp người nông dân vừa có thêm thu nhập, vừa tận dụng được từng mét vuông đất. Cứ thế, ca cao nép mình ở xứ sở xa lạ, hòa nhập vào mênh mông sông nước, hiền hòa sinh sôi như đã thuộc về miền đất này tự bao giờ.
Ca cao cần bàn tay kiên nhẫn, chăm sóc kỹ lưỡng, từ bón phân, cắt tỉa cành, kiểm soát sâu bệnh. Trái chín phải hái đúng lúc, hạt lấy ra phải được ủ men đủ ngày, phơi nắng vừa độ. Những hạt ca cao trắng ngà được lấy ra từ lớp cơm quả, đem đi lên men nhiều ngày trong thùng gỗ, rồi phơi nắng, rang xay.
Làm ca cao là công việc đòi hỏi sự cẩn thận và lòng say mê. Chỉ một khâu sơ sẩy, hương vị sẽ vuột mất, hạt sẽ chua gắt, không thể thành chocolate. Người nông dân đã học cách nắm lấy sự tinh tế đó, như học cách chăm chút một đứa con khó nuôi, để rồi nhận lại quả ngọt.
Quả ngọt ấy không chỉ nằm ở vị ngon. Hạt ca cao giàu chất chống oxy hóa, flavonoid, có lợi cho tim mạch, giảm stress, nâng đỡ tinh thần. Khi hạt ca cao được đem rang, được nghiền, được tempering (quy trình ủ nhiệt) – một “điệu nhảy” tinh tế với nhiệt độ: hạ xuống, nâng lên, rồi hạ xuống nữa – chocolate sẽ có bề mặt láng bóng, giòn tan, giữ được kết cấu bền lâu.
Đằng sau thanh chocolate nhỏ bé là khoa học kết hợp cùng nghệ thuật thủ công, tạo nên một loại thức ăn hấp dẫn vị giác. Thay vì chỉ bán hạt thô cho nước ngoài với giá rẻ, nay nhiều hợp tác xã, doanh nghiệp đã bước vào con đường “bean-to-bar” (bean: hạt, bar: thanh chocolate thành phẩm) – tự tay lên men, rang, nghiền và tinh luyện để cho ra đời những thanh chocolate hoàn chỉnh.
Giá trị của hạt ca cao nhờ thế tăng gấp nhiều lần. Một thanh chocolate đen nhỏ bé lại ẩn chứa biết bao dưỡng chất, và khi mang nhãn “Made in Vietnam”, nó còn ẩn chứa cả giá trị kinh tế lớn lao. Từ mảnh vườn quê nhà, từ mồ hôi giữa trưa nắng, từ những bắp tay chai sạn, giờ đây đã có những sản phẩm chocolate bước ra thế giới. Có thể vui mừng mà nói rằng: trái đất này, không chỉ Ecuador hay Ghana mới có ca cao, mà Việt Nam cũng có thể làm nên những thanh chocolate thuộc hàng ngon nhất thế giới.
Thị trường thế giới đang rộng mở. Người tiêu dùng khắp nơi bắt đầu tìm kiếm những hương vị mới – những loại chocolate mang đặc trưng vùng miền, như kiểu rượu vang phải có terroir riêng. Ca cao Bến Tre, Tiền Giang, Đắk Lắk… mỗi vùng đất lại mang đến một hương vị khác nhau: có nơi ngọt hậu như mật, có nơi thoảng vị chua trái cây, có nơi lại mạnh mẽ, đậm đà.
Chính sự đa dạng ấy khiến chocolate Việt Nam được giới sành ăn quốc tế chú ý và ca ngợi. Mỗi thanh chocolate không chỉ là sản phẩm, mà còn là tấm danh thiếp của nông dân miền Tây gửi ra thế giới. Giá trị kinh tế nhờ vậy cũng tăng gấp nhiều lần, giúp bà con cải thiện đời sống, làng quê thêm sung túc.
Trong một chuyến đi thực tế, đoàn chúng tôi ghé vào một vườn dừa trĩu quả. Ngồi bên dòng kênh xanh ngát, chúng tôi thích thú thưởng thức chocolate Việt Nam. Em gái quê mặc áo bà ba giới thiệu với chúng tôi những loại chocolate Việt Nam khác nhau, cách trồng cây, các công đoạn thành phẩm; đôi mắt em ánh lên niềm tự hào trong sáng.
Bóc tách lớp giấy gói in song ngữ, tôi không chỉ nếm vị đắng ngọt của ca cao, mà còn thấy cả sắc hoa ca cao thắm tươi dưới bóng dừa soi nước, thấy giọt mồ hôi của người nông dân, thấy lòng dâng lên niềm vui thầm lặng: từ một loài cây ngoại nhập, nay miền Tây đã làm nên một hương vị mang tầm quốc tế. Ngoài những chế phẩm từ sữa, từ kiều mạch, từ gừng, từ trái cây…, tôi thực sự ngạc nhiên với loại chocolate… muối ớt. Mẫu mã đẹp, vị ngon lạ – trí sáng tạo của người Việt luôn mang đến cho tôi những bất ngờ thú vị.
Tương lai của ca cao Việt Nam vẫn còn nhiều thử thách: sâu bệnh, khí hậu thất thường, thị trường cạnh tranh. Nhưng cũng chính những thử thách ấy mới làm vị ngọt thêm đáng giá.
Chocolate không chỉ là món ăn – nó còn là một câu chuyện. Ăn một miếng chocolate Việt Nam, ta thấy cái đắng đầu tiên chạm lưỡi, rồi vị chua nhẹ thanh thoát, cuối cùng kết lại bằng ngọt ngào vương vấn. Tôi chợt nghĩ: hành trình của hạt ca cao cũng giống như cuộc đời người nông dân - đi qua gian khó mới có được ngọt bùi.
Thanh chocolate tôi cầm trong tay không chỉ là kẹo ngọt, mà là kết tinh của đất trời, mồ hôi và khát vọng. Hương vị ca cao không chỉ làm thỏa lòng người Việt, mà còn góp phần ghi tên đất nước trên bản đồ chocolate thế giới. Và biết đâu, trong tương lai, khi nhắc đến Việt Nam, bên cạnh cà phê, người ta sẽ còn nhớ đến… chocolate.
Hồng Minh Nhân
Nguồn VHPT : https://vanhoavaphattrien.vn/huong-vi-ca-cao-niem-tu-hao-tu-mien-tay-a30797.html