Được biết đến là một chí sĩ yêu nước, một nhà cách mạng và một chính khách đức độ, di sản rực rỡ và truyền cảm hứng bậc nhất của cụ Huỳnh Thúc Kháng còn ở sự nghiệp báo chí nơi ngòi bút được mài sắc thành vũ khí đấu tranh cho quyền lợi của dân tộc. Tên Huỳnh Thúc Kháng cũng được đặt cho trường dạy viết báo đầu tiên ở nước ta.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Huỳnh Thúc Kháng (hàng đầu, thứ nhất từ phải sang) trong Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ảnh tư liệu.
Từ bỏ mũ áo cân đai, chọn con đường ái quốc
Huỳnh Thúc Kháng (tên khai sinh là Huỳnh Hanh), sinh ngày 01/10/1876 tại làng Thạnh Bình, tổng Tiên Giang Thượng, huyện Hà Đông, phủ Thăng Bình (nay là thôn Thạnh Bình, xã Tiên Cảnh, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam). Thân phụ là Huỳnh Văn Phương (hiệu Tấn Hữu), một nhà nho theo nghiệp đèn sách nhưng không thành danh. Thân mẫu là Nguyễn Thị Tình, người cùng quê, một phụ nữ mực thước, đảm đang.
Huỳnh Thúc Kháng vốn nổi tiếng thông minh, học giỏi và sớm đạt giải cao trong các kỳ thi. Năm 1900, Huỳnh Thúc Kháng đỗ đầu kỳ thi Hương, năm 1904, đỗ tiến sĩ kỳ thi Hội, trở thành một người nổi tiếng của xứ Quảng thời ấy.
Vốn không tham quyền chức nên sau khi đỗ tiến sĩ, cụ Huỳnh Thúc Kháng không ra làm quan mà đi dạy học, tìm đọc nhiều sách báo có nội dung tư tưởng mới, nuôi ý chí canh tân đất nước. Năm 1905, cụ Huỳnh Thúc Kháng cùng với Phan Châu Trinh và Trần Quý Cáp đi tìm hiểu tình hình thực tế ở phía Nam, xem xét dân tình, sĩ khí, đề xướng tân học và tìm bạn cùng chí hướng. Năm 1906, cụ trở về Quảng Nam khởi xướng, lãnh đạo phong trào Duy tân (1906-1908).
Do tham gia khởi xướng cuộc vận động Duy Tân ở Trung Kỳ, rồi phát triển thành một phong trào đấu tranh sôi nổi của quần chúng nhân dân, trong đó có phong trào chống thuế năm 1908, cụ Huỳnh bị thực dân Pháp bắt, đày đi Côn Đảo 13 năm (1908-1921).
Tháng 7/1926, cụ Huỳnh Thúc Kháng trúng cử Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ. Tuy nhiên, sau khi thấy Viện Dân biểu không thực sự đại diện cho tiếng nói và nguyện vọng của nhân dân nên cụ xin từ chức, tập trung vào sự nghiệp báo chí, văn chương.
Con đường làm báo, “vũ khí sắc bén” vì dân tộc
Cụ Huỳnh Thúc Kháng khởi đầu hành trình báo chí sau một thời gian dài hoạt động chính trị, gồm việc đậu Cử nhân–Tiến sĩ, giữ chức Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ và tham gia phong trào Duy Tân – nhưng sớm nhận ra giá trị và sức mạnh của báo chí trong đấu tranh dân quyền. Năm 1926, ông cùng cộng sự như Đào Duy Anh, Nguyễn Xương Thái chuẩn bị cho ra tờ báo quốc ngữ Tiếng Dân tại Huế, với cách tổ chức chuyên nghiệp: tìm hiểu mô hình báo tại Sài Gòn, xây dựng bộ máy tòa soạn nghiêm ngặt.
Cụ Huỳnh Thúc Kháng, chủ bút tờ Tiếng Dân.
Ngày 10/8/1927, số đầu Tiếng Dân ra mắt với tuyên ngôn rõ ràng: “Nếu không có quyền nói tất cả… thì ít ra cũng giữ được cái quyền không nói những điều người ta ép buộc nói”.
Cụ xác định báo chí là phương tiện công khai đấu tranh, phản kháng chính sách hà khắc, bênh vực quyền lợi nhân dân và chủ quyền dân tộc.
Trong suốt sự nghiệp làm báo, cụ Huỳnh Thúc Kháng đã sử dụng nhiều bút danh khác nhau như: Sử Bình Tử, Ưu Thời Khách, Thúc Tự Dân, Điền Dân, Hải Âu, Phi Bằng... Mỗi cái tên là một cách thể hiện linh hoạt phong cách viết và ẩn danh để đối phó với sự kiểm soát gắt gao của chính quyền thực dân.
Các bài viết của cụ không chỉ phơi bày sự hà khắc, phi lý của chế độ thực dân phong kiến, mà còn thể hiện rõ nét tư duy phản biện sắc sảo, khôn khéo. Dù công khai chỉ trích những bất công xã hội và chính sách cai trị, ông luôn lựa chọn ngôn từ cẩn trọng, khiến đối phương dù không hài lòng cũng khó lòng quy kết.
Kiến thức sâu rộng và tinh thần quyết liệt thể hiện rõ trong bút pháp của cụ vừa sắc sảo, chí lý, vừa thể hiện khí phách ung dung, bất khuất trước áp lực cả chính quyền lẫn dư luận, đậm nét chí khí xứ Quảng.
Tiếng Dân từ chối quảng cáo sai sự thật do sợ mất uy tín và phản ánh đến đạo đức báo chí, dù có thể tăng thu, điều chứng tỏ sự khẳng khái, không vì lợi nhuận mà làm sai đường lối . Cụ xem báo chí là ngọn cờ tiên phong trong chính trị, đôi khi còn hơn cả vũ khí quân sự, “trăm vạn quân không bằng một tờ báo”.
Suốt 16 năm hoạt động (1927–1943), phát hành 1.766 số, dưới sự dẫn dắt của Chủ nhiệm kiêm Chủ bút Huỳnh Thúc Kháng, Tiếng Dân là tờ báo quốc ngữ đầu tiên và kiên định nhất miền Trung – trở thành diễn đàn phản ánh đời sống xã hội, chính trị, tiếng nói chính luận vang rõ.
Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng. Ảnh tư liệu.
Tờ báo kiên trì bảo vệ quyền lợi của những người yếu thế, lên tiếng cho tầng lớp bị áp bức, đồng thời trở thành “vũ khí chính luận” sắc bén phơi bày sự dối trá, bất công trong bộ máy cai trị của thực dân.
Qua các bài viết đanh thép, Tiếng Dân không ngừng phản ánh hiện thực xã hội với những bất công về sưu cao thuế nặng, đàn áp dân sinh, qua đó góp phần quan trọng vào việc nâng cao nhận thức chính trị, khơi dậy tinh thần đấu tranh và ý thức công dân trong nhân dân. Tờ báo không chỉ giữ vai trò cách mạng, mà còn góp phần xây dựng nền báo chí hiện đại, chuẩn chỉnh tòa soạn, biên tập chuyên nghiệp, đối thoại minh bạch với độc giả.
Năm 1937, cụ được bầu làm Chủ tịch Liên đoàn Báo giới Việt Nam, khẳng định vị trí chủ đạo của mình trong giới báo chí.
“Người học hành rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao”
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trân trọng mời cụ Huỳnh tham gia Chính phủ, giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ và sau đó là Quyền Chủ tịch nước. Do tuổi cao, sức yếu và bệnh nặng, cụ Huỳnh qua đời tại tỉnh Quảng Ngãi ngày 21/4/1947 và an táng tại núi Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi.
Thư của Bác Hồ gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng. Ảnh: Mai Nguyễn.
Trong lễ Quốc tang Nguyên quyền Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Ban tang lễ trang trọng đọc thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi vào Quảng Ngãi, khẳng định: “Cụ Huỳnh là người học hành rộng, chí khí rất bền, đạo đức rất cao. Vì lòng yêu nước mà trước đây cụ bị thực dân làm tội, đày ra Côn Đảo. Mười mấy năm trường gian nan cực khổ, nhưng lòng son dạ sắt, yêu nước thương nòi của cụ chẳng những không sờn mà lại thêm cương quyết. Cụ Huỳnh là người mà giàu sang không làm siêu lòng, nghèo khó không làm nản chí, oai vũ không làm sờn gan. Cả đời cụ Huỳnh không màng danh vị, không cầu lợi lộc, không thèm làm giàu. Cả đời Cụ Huỳnh chỉ phấn đấu cho dân được tự do…”.
Đối với thế hệ trẻ, Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng không chỉ là một di tích lịch sử mà còn là nguồn cảm hứng lớn lao, nhắc nhở họ về truyền thống vẻ vang, tinh thần cống hiến và trách nhiệm của người làm báo cách mạng. Ảnh: Mai Nguyễn.
Ngày 4/4/1949, trong vùng ATK (An toàn khu) Việt Bắc, Thái Nguyên, theo chỉ đạo của Hồ Chí Minh, Tổng bộ Việt Minh và Đoàn Báo chí Kháng chiến, khai giảng “Trường dạy làm báo Huỳnh Thúc Kháng”. Việc chọn tên trường là vinh danh người chí sĩ-nhà báo mẫu mực, là bài học tinh thần cho thế hệ làm báo kháng chiến.
Ban giám đốc gồm Đỗ Đức Dục (Giám đốc), Xuân Thủy (Phó giám đốc), Như Phong, Đỗ Phồn, Tú Mỡ. Giảng viên là những tên tuổi lớn: Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt, Tố Hữu, Trần Huy Liệu, Nguyễn Tuân, Nam Cao… Học viên ban đầu là 42–43 người, là cán bộ chính trị, quân sự và báo chí cả nước gửi về.
Dù chỉ có một khóa kéo dài từ 4/4 đến 6/7/ 1949 (khoảng 3 tháng), nhưng nhà trường đã huấn luyện được 42 học viên, những người sau này trở thành các nhà báo cách mạng xuất sắc, tiếp tục đảm nhiệm các công tác quan trọng tại các cơ quan báo chí và tuyên truyền của Đảng và Nhà nước.
Mai Nguyễn