Kết nối, hội tụ một vùng văn hóa

Kết nối, hội tụ một vùng văn hóa
3 giờ trướcBài gốc
Đồng bào Lâm Đồng đại ngàn vui hội cồng chiêng
Lợi thế địa lịch sử, văn hóa
Những di tích, dấu tích văn hóa Chăm và người Việt vùng biển thuộc Bình Thuận xưa đã xuất hiện trên miền cao nguyên từ rất sớm. Nhiều đền tháp của người Chăm có mặt giữa đại ngàn. Những bộ sử thi, truyện cổ, dân ca của các tộc người M’nông, Churu, K’ho, Mạ… và của đồng bào Chăm đều lưu dấu mối quan hệ qua lại giữa các tộc người từ thời cổ sử.
Từ quá khứ cho đến đến bây giờ, tục năudrà hay còn gọi là lọtdrà của người thiểu số cao nguyên nói về những cuộc hành trình của họ xuống vùng biển hàng tháng trời để giao lưu, trao đổi, mua bán sản vật vẫn còn tồn tại. Người Churu, một tộc người nói chung ngữ hệ và có nguồn gốc Chăm còn được nhận sự ủy thác của người Chăm trong việc thờ cúng các vị vua và hoàng tộc Chăm Pa tại vùng sông Đa Nhim.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, các phong trào yêu nước, những cuộc khởi nghĩa từ miền cao nguyên của các thủ lĩnh N’Trang Lơng, Mọ Cọ… đều có sự tham gia của các nghĩa binh Chăm. Những chiến khu của lực lượng Việt Minh chống Pháp đều thuộc núi rừng, làng buôn của cả 3 tỉnh cũ. Gần nhất, trong lịch sử hiện đại, địa bàn Lâm Đồng thuộc Khu VI anh hùng. Khu VI là vùng đất duyên hải cực Nam Trung Bộ và Nam Tây Nguyên; đây là địa bàn có vị trí chiến lược đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Tháng 5 năm 1961, Khu VI được thành lập gồm các tỉnh: Đắk Lắk, Tuyên Đức, Lâm Đồng, Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận. Đến cuối năm 1974, địa bàn Khu VI vẫn bao gồm các tỉnh: Quảng Đức, Lâm Đồng, Tuyên Đức, Ninh Thuận, Bình Thuận và Bình Tuy.
Dẫn lại một vài cứ liệu để hiểu thêm rằng, những cơ duyên lịch sử đã kết nối những vùng đất Lâm Đồng từ trong quá khứ. Chính điều đó đã dựng nên chân dung một Lâm Đồng hiện nay trong việc phát huy lợi thế địa lịch sử, văn hóa.
Về trong một “ngôi nhà chung”, tỉnh Lâm Đồng mới có diện tích tự nhiên lớn nhất nước, dân số hơn 3,87 triệu người, 49 dân tộc, trong đó, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 17,6%. Lâm Đồng trở thành nơi hội tụ, hòa hợp của đa dạng sắc màu văn hóa, những sắc màu ấy như một tấm thổ cẩm gấm vóc, tạo nên dấu ấn và sự hấp dẫn.
Đồng bào Chăm chuẩn bị cúng tổ tiên trong Lễ hội Katê
Nơi hội tụ, hòa hợp của đa dạng sắc màu văn hóa
Từ phía Tây Lâm Đồng, trên cao nguyên M’nông xưa, hiện đang có 40 dân tộc cùng sinh sống, trong đó gồm nhóm đồng bào các dân tộc tại chỗ như: M’nông, Mạ, Ê đê cùng đồng bào Kinh và các dân tộc miền núi phía Bắc di cư. Lẽ đó, phía Tây Lâm Đồng là nơi quần tụ của một vùng cư dân đa dạng nên vùng đất này có một đời sống văn hóa tinh thần hết sức phong phú. Các tộc người đã tạo nên hệ giá trị đa dạng; tiến trình giao thoa, tiếp biến văn hóa cũng đã góp phần vẽ nên bức tranh giàu bản sắc. Đồng bào nơi đây còn lưu giữ nhiều lễ hội dân gian, nhiều pho sử thi kỳ vĩ, các bộ luật tục, các làn điệu dân ca, dân vũ; kiến trúc nhà sàn, nhà rông và tượng nhà mồ chứa bao điều bí ẩn, hấp dẫn.
Cũng từ đây, các loại nhạc cụ lâu đời, niềm tự hào của văn hóa Tây Nguyên, văn hóa Việt Nam như: bộ đàn đá, bộ chiêng đá của người M’nông có niên đại hàng ngàn năm trước; đàn t’rưng, đàn k’lông pút, đàn nước, kèn, sáo... Bên cạnh đó là những nét riêng biệt, độc đáo trong phong tục, tập quán, lối sống, ẩm thực và trang phục; những nghề thủ công truyền thống như: rèn sắt, dệt vải, nặn gốm, đan lát… cũng là những chỉ dấu riêng có của vùng đất này…
Vùng duyên hải phía Đông Nam Lâm Đồng lại là khu vực hội tụ nhiều nét văn hóa đặc sắc của cộng đồng 35 dân tộc, trong đó, nền văn minh Chăm Pa cổ và văn hóa biển của người Việt là những dấu ấn hết sức rõ nét. Ngoài việc sở hữu nhiều danh lam, thắng cảnh, không gian này là nơi hội tụ nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể.
Hiện nay, vùng Đông Nam Lâm Đồng có trên 70 di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh đã được xếp hạng, trong đó có 28 di tích, danh thắng quốc gia và 4 di sản văn hóa phi vật thể đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Quần thể tháp Chăm Pô Sah Inư, di tích kiến trúc - nghệ thuật quốc gia tọa lạc trên đồi Bà Nài ở phường Phú Thủy, được xây dựng cuối thế kỷ VIII, đầu thế kỷ IX, thờ thần Shiva và công chúa Pô Sah Inư là một di tích đặc biệt quan trọng.
Cũng ở phường Phan Thiết còn có dinh Vạn Thủy Tú, Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia mang dấu ấn văn hóa đặc trưng của cư dân duyên hải. Trong khi đó, Dinh Thầy Thím được biết đến là một Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia gắn với câu chuyện mang màu sắc huyền thoại về một vị đạo sĩ giàu lòng nhân ái.
Di tích quốc gia chùa Núi Tà Cú được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, có dáng vẻ cổ kính, đường nét kiến trúc tinh xảo cũng là một ngôi chùa hiếm có. Đặc biệt là Khu di tích Trường Dục Thanh. Dưới mái trường này, năm 1910, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng dạy học trước khi ra đi tìm đường cứu nước vào năm 1911. Đông Nam Lâm Đồng còn được biết đến là nơi có nhiều lễ hội dân gian, nhiều làng nghề truyền thống, tiêu biểu là Di sản văn hóa phi vật thể Lễ hội Katê của đồng bào Chăm theo đạo Bàlamôn, Lễ hội Dinh Thầy Thím, Lễ hội Nghinh Ông của người Hoa…
Còn ở trung tâm tỉnh, vùng đất 3 cao nguyên (Lang Biang, Djiring, B’lao) thuở trước là quê hương ngàn đời của những tộc người nói 2 ngữ hệ Môn-Khmer và Malayo Polynesia như: K’ho, Mạ, Churu… Ngày nay, xứ sở này là đất lành của cư dân nhiều vùng trong nước cùng về đây sinh sống. Miền núi rừng đất đỏ trên cao này đã trở thành tổ ấm của người Việt trăm miền; và từ đó, cũng là nơi bảo lưu và giao hòa nhiều giá trị bản sắc văn hóa. Văn hóa vùng trung tâm Lâm Đồng được hình thành trên nền tảng văn hóa Việt, văn hóa các dân tộc thiểu số tại chỗ và một phần của văn hóa các tộc người thiểu số phía Bắc vào đây lập nghiệp.
Sự giao thoa giữa các yếu tố này đã tạo nên một kho tàng văn hóa dân gian đặc sắc, phong phú; thể hiện trong kiến trúc, trang phục, ẩm thực; trong các làng nghề; trong tín ngưỡng, phong tục, lễ hội, nghệ thuật dân gian. “Lâm Đồng ngàn hoa” là nơi hội tụ rất nhiều danh thắng, di tích nổi tiếng, đặc biệt là Di tích khảo cổ học Quốc gia đặc biệt Cát Tiên…
Tỉnh lỵ (Đà Lạt cũ) hiện là khu vực đô thị có 4 danh hiệu được UNESCO công nhận, bao gồm: Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên (di sản văn hóa phi vật thể), Mộc bản Triều Nguyễn (di sản tư liệu), Khu dự trữ sinh quyển thế giới Lang Biang và Đà Lạt - Thành phố sáng tạo UNESCO trong lĩnh vực âm nhạc. Các danh hiệu ghi nhận về những đóng góp trong văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc, môi trường, tôn vinh giá trị cốt lõi sáng tạo và bền vững. Hòa hợp với thiên nhiên, đô thị này có một “bảo tàng” kiến trúc Pháp thế kỷ XIX với trên 1.000 biệt thự, dinh thự, những kiến trúc hoàn thiện, hoàn mỹ tạo nên một “tiểu Paris của Việt Nam”. Festival Hoa Đà Lạt cũng đã trở thành một thương hiệu văn hóa được nhiều tổ chức trong và ngoài nước công nhận…
Như một cơ duyên hội tụ văn hóa, hợp nhất là cơ hội để các Yàng của đồng bào Tây Nguyên “gặp gỡ” Nam Hải Đại Vương trong tục thờ thần biển của cư dân duyên hải và thần Shiva, thần Brahma trong tín ngưỡng người Chăm. Hợp nhất là tỉnh mới được nối dài thêm danh sách các dân tộc anh em; mở rộng thêm không gian văn hóa vùng miền và phong phú thêm “bộ sưu tập” hệ thống di sản vật thể và phi vật thể. Những di sản vô giá đó chính là nền tảng, tiềm năng, niềm tự hào và động lực cho tiến trình phát triển của một vùng non nước.
Một thống kê khái quát, Lâm Đồng sau sáp nhập là địa phương có tới 7 di sản văn hóa được UNESCO ghi danh, 10 di sản phi vật thể quốc gia, 3 di tích đặc biệt, 144 di tích lịch sử - danh thắng. Bảo tàng tỉnh cũng đang lưu giữ hơn 112.000 hiện vật, tài liệu, trong đó có 3 bảo vật quốc gia (đàn đá Đắk Sơn, linga vàng và tượng Avalokitesvara Bắc Bình). Dữ liệu nói trên là một ví dụ rõ nét cho sự giàu có hệ thống di sản văn hóa trên vùng đất này.
Uông Thái Biểu .
Nguồn Lâm Đồng : https://baolamdong.vn/ket-noi-hoi-tu-mot-vung-van-hoa-394512.html